Analytic
Thứ Sáu, ngày 23 tháng 08 năm 2019, 09:25:27
CHUYÊN TRANG
CÁC CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA
CHƯƠNG TRÌNH 1719 * NÔNG THÔN MỚI * GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG

Cú hích chiến lược làm thay đổi diện mạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số: Những trụ cột phát triển bền vững – Bài 1

Hà Anh - 7 giờ trước

Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã đi gần hết chặng đường 5 năm của giai đoạn I. Với những kết quả đã đạt được, đây không chỉ là chương trình giảm nghèo đơn thuần, mà còn là chiến lược toàn diện với mục tiêu thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền, tạo ra những đột phá rõ nét về hạ tầng, sinh kế bền vững, phát triển giáo dục, y tế, bảo tồn văn hóa truyền thống … mang lại sự thay đổi toàn diện, nâng cao chất lượng sống và tạo ra cơ hội phát triển cho hàng triệu người dân nơi đây.

Hạ tầng cơ sở các địa phương được quan tâm đầu tư, phục vụ sản xuất
Hạ tầng cơ sở các địa phương được quan tâm đầu tư, phục vụ sản xuất

Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số không đơn thuần là một gói chính sách – mà là một chiến lược dài hơi, toàn diện. Với cách tiếp cận bền vững, toàn diện và vì con người, Chương trình đang dần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa miền núi và đồng bằng.

Hoàn thiện hạ tầng, mở đường thoát nghèo cho vùng cao

Sau gần 5 năm triển khai, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2021-2025 đã tạo ra những bước ngoặt mạnh mẽ, đặc biệt về hệ thống hạ tầng cơ sở – nơi từng là điểm nghẽn lớn nhất kéo chậm đà phát triển của vùng sâu, vùng xa.

Tại các bản làng vùng cao, vùng sâu, vùng xa, nơi có đông đồng bào DTTS sinh sống, những con đường bê tông giờ đây đang nối dài đến tận từng bản làng heo hút, mở lối cho hàng hóa giao thương, trẻ em đến trường, người dân tiếp cận y tế, dịch vụ. Theo thống kê đến cuối năm 2024, cả nước đã đạt được nhiều kết quả mang tính đột phá: 100% xã đặc biệt khó khăn có đường ô tô đến trung tâm, trong đó hầu hết đã được kiên cố hóa, đảm bảo đi lại thuận lợi quanh năm. 98% thôn, bản có đường giao thông cấp phối hoặc bê tông, từng bước xóa bỏ cảnh “mưa lầy nắng bụi”, thúc đẩy liên kết giữa các khu dân cư.

Tại các tỉnh miền núi phía Bắc như Lào Cai, Sơn La, Hà Giang…, hàng trăm công trình đường liên thôn, liên xã đã được đầu tư mới. Riêng Lào Cai đã hoàn thành 173 công trình giao thông nông thôn chỉ trong giai đoạn đầu của Chương trình, tạo bước chuyển lớn trong kết nối và phát triển vùng.

Không chỉ có đường sá, các hạ tầng thiết yếu cũng được đầu tư đồng bộ, toàn diện: 100% xã vùng đồng bào DTTS có trạm y tế; 99,8% hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia – một bước tiến vượt bậc trong đảm bảo sinh hoạt, sản xuất. 96% hộ dân được tiếp cận nước hợp vệ sinh, nâng cao đáng kể chất lượng sống và phòng chống dịch bệnh.

Đơn cử, khu vực Tây Nguyên, với 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng, là vùng đất giàu tiềm năng nhưng cũng đối mặt với nhiều thách thức về hạ tầng. Nhờ sự triển khai đồng bộ của Chương trình MTQG phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, khu vực này đã ghi nhận những chuyển biến tích cực.

Đồng bào dân tộc thiểu số huyện Sơn Dương (tỉnh Tuyên Quang) được hỗ trợ bồn nước inox. Ảnh: Minh Đức.
Đồng bào dân tộc thiểu số huyện Sơn Dương (tỉnh Tuyên Quang) được hỗ trợ bồn nước inox. Ảnh: Minh Đức

Trong đó, tại Đắk Nông đã có hơn 15.000 hộ đồng bào dân tộc tại các xã khó khăn được kéo điện mới trong giai đoạn 2021–2023; Tại tỉnh Gia Lai, Chương trình đã hỗ trợ xây dựng hơn 90 công trình cấp nước ở các xã đặc biệt khó khăn, giúp khắc phục tình trạng thiếu nước sinh hoạt trong mùa khô…

Những con số trên không chỉ phản ánh sự cải thiện về hạ tầng mà còn là minh chứng cho sự quan tâm và đầu tư của Nhà nước đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội bền vững.

Tạo sinh kế từ những mô hình hiệu quả

Nhiều mô hình sinh kế phù hợp với đặc thù vùng miền đã được triển khai đồng bộ trong khuôn khổ Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, mang lại hiệu quả rõ nét và bền vững.

Đây là những giải pháp không chỉ nâng cao thu nhập cho người dân, mà còn góp phần bảo tồn văn hóa, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Quan trọng hơn, các mô hình này đang thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, khơi dậy nội lực cộng đồng và tạo nền tảng để người dân tự vươn lên thoát nghèo một cách bền vững.

Đơn cử, tại Tây Nguyên, một trong những điểm sáng chính là mô hình trồng cây dược liệu dưới tán rừng, tiêu biểu ở tỉnh Lâm Đồng. Người Cơ Ho đã khéo léo kết hợp bảo vệ rừng với phát triển kinh tế, tạo sinh kế gắn liền với tài nguyên bản địa, đồng thời giảm áp lực lên tài nguyên thiên nhiên. Ở Đắk Lắk, mô hình hỗ trợ chăn nuôi bò sinh sản đang lan tỏa mạnh mẽ. Riêng tại huyện Krông Pắc, hơn 320 con bò giống đã được trao cho các hộ nghèo và cận nghèo, mở ra cơ hội vươn lên cho hàng trăm gia đình. Một số nơi còn triển khai liên kết với doanh nghiệp, đảm bảo đầu ra ổn định và nâng cao giá trị sản phẩm.

Tại Duyên hải miền Trung, mô hình nuôi bò sinh sản ở huyện Cam Lâm (Khánh Hòa), hay phục hồi nghề truyền thống như dệt thổ cẩm ở Quảng Nam, làm gốm ở Ninh Thuận… vừa tạo việc làm tại chỗ, vừa góp phần duy trì các giá trị văn hóa phi vật thể có nguy cơ mai một.

Ở miền núi phía Bắc cũng ghi nhận những chuyển động tích cực. Ở Bắc Kạn, người dân xã Thượng Giáo đã chuyển sang trồng cây cà gai leo – một loại dược liệu có giá trị kinh tế cao – thay thế cho các loại cây kém hiệu quả trước đây. Nhiều địa phương khác phát triển du lịch cộng đồng, như ở Hà Giang, Lai Châu, gắn kết bảo tồn văn hóa dân tộc với thu hút du khách, tạo ra nguồn thu ổn định, thúc đẩy tự hào bản sắc và giữ gìn phong tục truyền thống.

Những mô hình sinh kế này là bằng chứng rõ nét cho sự linh hoạt, sát thực tế và mang tính liên vùng trong triển khai chính sách. Từ đó, không chỉ giảm tỷ lệ hộ nghèo nhanh và bền vững, mà còn thúc đẩy các cộng đồng dân tộc thiểu số chủ động tham gia vào chuỗi giá trị kinh tế – xã hội, đóng góp ngày càng lớn vào phát triển chung của đất nước.

Cây chè giúp cải thiện cuộc sống của bà con đồng bào thiểu số
Cây chè giúp cải thiện cuộc sống cho đồng bào dân tộc thiểu số

Giảm nghèo nhanh và bền vững

Những nỗ lực đồng bộ từ chính sách, đầu tư hạ tầng, đến hỗ trợ sinh kế đã tạo ra bước chuyển biến rõ rệt trong công tác giảm nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số – một trong những mục tiêu trọng tâm và xuyên suốt của Chương trình mục tiêu quốc gia.

Năm 2024 đánh dấu bước tiến mạnh mẽ trong công tác giảm nghèo tại Việt Nam, với những kết quả vượt kỳ vọng, phản ánh hiệu quả của các chính sách an sinh xã hội và chương trình phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số.​

Theo đó, tỷ lệ hộ nghèo toàn quốc giảm xuống còn 1,93%, tương đương 599.608 hộ, vượt mục tiêu giảm trên 1% so với năm trước. Tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo giảm còn 24,86%, tức giảm khoảng 5% so với năm 2023, cho thấy sự cải thiện đáng kể ở những khu vực khó khăn nhất.​

Đồng thời, tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số giảm xuống còn 12,55%, tức giảm gần 4%, đạt và vượt chỉ tiêu Quốc hội và Chính phủ giao. Đáng chú ý, tỷ lệ nghèo đa chiều toàn quốc (bao gồm cả hộ nghèo và hộ cận nghèo) năm 2024 là 4,06%, giảm 1,65% so với năm 2023.

Những con số này không chỉ là minh chứng cho thành công của các Chương trình mục tiêu quốc gia, mà còn phản ánh sự chuyển biến tích cực trong đời sống của người dân, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa.

Tin cùng chuyên mục
Kiên Giang: Công bố Quyết định huyện An Minh đạt chuẩn nông thôn mới năm 2023

Kiên Giang: Công bố Quyết định huyện An Minh đạt chuẩn nông thôn mới năm 2023

Ngày 15/4, UBND tỉnh Kiên Giang tổ chức Lễ công bố Quyết định của Thủ tướng Chính phủ công nhận huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang đạt chuẩn huyện nông thôn mới năm 2023. Tham dự và trao Quyết định có: Ông Nguyễn Tiến Hải - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy; ông Nguyễn Thanh Nhàn - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang, cùng đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành, lãnh đạo huyện An Minh và đông đảo người dân trong huyện.