Analytic
Thứ Sáu, ngày 23 tháng 08 năm 2019, 09:25:27
CHUYÊN TRANG
CÁC CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA
CHƯƠNG TRÌNH 1719 * NÔNG THÔN MỚI * GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG

Công bố chỉ số cải cách hành chính năm 2021

PV - 14:05, 25/05/2022

Sáng 25/5, tại Hà Nội, Ban Chỉ đạo Cải cách hành chính của Chính phủ tổ chức Hội nghị công bố chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính năm 2021 (SIPAS 2021) và chỉ số cải cách hành chính năm 2021 của các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (PAR INDEX 2021).


Quang cảnh Hội nghị
Quang cảnh Hội nghị

Đồng chí Phạm Thị Thanh Trà, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Bộ trưởng Nội vụ, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo Cải cách hành chính của Chính phủ chủ trì Hội nghị.

Kết quả PAR INDEX 2021 các bộ, cơ quan ngang bộ được phân loại gồm 3 nhóm điểm hơn 90%, bao gồm 3 đơn vị: Bộ Tư pháp; Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Từ hơn 80% đến dưới 90%, bao gồm 13 bộ: Nội vụ; Ngoại giao; Tài nguyên và Môi trường; Lao động-Thương binh và Xã hội; Xây dựng; Thông tin và Truyền thông; Giao thông vận tải; Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Kế hoạch và Đầu tư; Công thương; Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Y tế; Giáo dục và Đào tạo. Dưới 80% là Bộ Khoa học và Công nghệ (78,72%).

Giá trị trung bình PAR INDEX 2021 của 17 bộ, cơ quan ngang bộ là 86,07%, giảm 1,49% so năm 2020 (đạt 87,56%). Tuy nhiên, xét trong 10 năm đánh giá thì kết quả PAR INDEX 2021 tiếp tục duy trì xu hướng tăng, giá trị trung bình năm 2021 đã tăng cao hơn 10,69% so năm 2012.

Về kết quả PAR INDEX 2021 của các tỉnh, thành phố: Thành phố Hải Phòng lần đầu tiên bứt phá lên ngôi vị quán quân PAR INDEX 2021, với kết quả đạt 91,80%, cao hơn 0,66% so đơn vị xếp vị trí thứ 2 là Quảng Ninh (đạt 91,14%). Thành phố Đà Nẵng đã có sự trở lại ấn tượng trong tốp 5 địa phương dẫn đầu sau 2 năm vắng bóng ở nhóm này, năm 2021 đạt 90,25% xếp vị trí thứ 3/63; trong khi đó, Vĩnh Phúc cũng có lần đầu tiên lọt nhóm 5 địa phương dẫn đầu, với kết quả năm 2021 đạt 89,28%, xếp vị trí thứ 5/63.

Ngoài ra, Thừa Thiên Huế tiếp tục duy trì được thành tích cao trên bảng xếp hạng, với kết quả đạt 89,32%, xếp vị trí thứ 4 trong tổng số 63 tỉnh, thành phố. Đứng cuối bảng xếp hạng PAR INDEX 2021 là tỉnh Kiên Giang, đạt 79,97% và là địa phương duy nhất có kết quả dưới 80%. Đây cũng là năm thứ 2 liên tiếp Kiên Giang nằm trong nhóm 5 địa phương có kết quả PAR INDEX thấp nhất cả nước (năm 2020, đạt 77,91%, xếp vị trí thứ 61 trong tổng số 63).

Nhìn chung, kết quả PAR INDEX 2021 của các tỉnh, thành phố tiếp tục có sự tăng trưởng tích cực, cho thấy những nỗ lực, quyết tâm đẩy mạnh cải cách hành chính của chính quyền các cấp ở địa phương đã mang lại hiệu quả rõ rệt, ngày càng được người dân, cộng đồng doanh nghiệp ghi nhận và đánh giá cao.

Tuy nhiên, năm 2021, những nguyên nhân khách quan từ dịch bệnh Covid-19 đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả điểm, xếp hạng PAR INDEX 2021 của một số địa phương, nhất là những tỉnh, thành phố hay khu vực kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh, phải thực hiện phong tỏa, giãn cách xã hội trong thời gian dài, dẫn đến việc thực hiện một số nhiệm vụ cải cách hành chính và thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội tại các địa phương, khu vực này bị gián đoạn, kết quả hoàn thành thấp hơn so các địa phương, vùng kinh tế bị ảnh hưởng ít nghiêm trọng hơn.

Do đó, kết quả điểm và xếp hạng PAR INDEX 2021 cũng cho thấy có sự phân hóa khá rõ giữa các chỉ số thành phần; giữa các tỉnh, thành phố và giữa các khu vực kinh tế. Lĩnh vực nào hoặc địa phương, khu vực nào chịu tác động nghiêm trọng bởi dịch Covid-19 thì thường có kết quả PAR INDEX thấp hơn so phần còn lại.

Giá trị trung bình SIPAS 2021 là 87,16%. Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính của 63 tỉnh, thành phố nằm trong khoảng 82,79% đến 94,07%. Các tỉnh, thành phố có SIPAS 2021 ở nhóm đầu (từ 90% trở lên) gồm: Quảng Ninh, Hải Phòng, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Tĩnh, Sơn La, Bắc Ninh và Bắc Giang.

Kết quả đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức năm 2021 cho thấy, người dân, tổ chức chủ yếu tiếp cận thông tin về cơ quan cung ứng dịch vụ công và quy định thủ tục hành chính thông qua công chức, với các chỉ số lần lượt là 50,88% và 62,72%, còn lại là các hình thức khác.

Tỷ lệ người dân, tổ chức tiếp cận thông tin về 2 nội dung này thông qua mạng internet chỉ là 12,64% và 14,89%. Có 3,26% người dân, tổ chức phải đi lại nhiều lần để thực hiện dịch vụ công. Việc người dân, tổ chức phải đi lại nhiều lần xảy ra tại 61/63 tỉnh, thành phố. Có 0,45% người dân, tổ chức phản ánh bị công chức gây phiền hà, sách nhiễu, 0,14% phản ánh phải nộp thêm tiền ngoài phí/lệ phí trong quá trình giao dịch dịch vụ công. Có 46/63 tỉnh, thành phố có người dân, tổ chức phản ánh bị công chức gây phiền hà, sách nhiễu và 22/63 tỉnh, thành phố có phản ánh phải trả thêm tiền ngoài phí/lệ phí.

Có 2,57% người dân, tổ chức bị trễ hẹn trả kết quả, trong số đó, chỉ có 40,38% nhận được thông báo của cơ quan về việc trễ hẹn trả kết quả và 42,58% nhận được xin lỗi của cơ quan về việc trễ hẹn trả kết quả. Có 57/63 tỉnh, thành phố xảy ra tình trạng trễ hẹn trả kết quả dịch vụ, trong đó chỉ có 4/57 tỉnh, thành phố thực hiện thông báo cho người dân, tổ chức về việc trễ hẹn và cũng 4/57 tỉnh, thành phố đã thực hiện xin lỗi về việc trễ hẹn.

Ba nội dung mà người dân, tổ chức mong đợi các cơ quan hành chính nhà nước cải thiện nhiều nhất là: Tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính, với 54,02% người dân, tổ chức mong đợi; rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính, với 51,89% người dân, tổ chức mong đợi; tăng cường nhận hồ sơ và trả kết quả qua dịch vụ bưu chính, với 47,26% người dân, tổ chức mong đợi. Mặc dù yếu tố thủ tục hành chính nhận được sự hài lòng của người dân, tổ chức cao thứ 2 trong số 5 yếu tố được đánh giá nhưng 2 nội dung mà họ mong đợi được cơ quan hành chính nhà nước cải thiện nhiều nhất đều thuộc yếu tố thủ tục hành chính./.