Analytic
Thứ Sáu, ngày 23 tháng 08 năm 2019, 09:25:27
CHUYÊN TRANG
CÁC CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA
CHƯƠNG TRÌNH 1719 * NÔNG THÔN MỚI * GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG

Nét đẹp trong phong tục cưới hỏi của người Nùng Dín

Quang Vũ - Vũ Mừng - 9 giờ trước

Cũng như cộng đồng các dân tộc anh em khác, phong tục cưới hỏi của người Nùng Dín (nhóm địa phương thuộc dân tộc Nùng) không chỉ là việc kết duyên đôi lứa, mà còn là nghi lễ quan trọng, minh chứng cho sự trưởng thành của con người, là cầu nối hạnh phúc lứa đôi, góp phần gắn kết cộng đồng, lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc.

Con trai, con gái người Nùng Dín ở huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang trước nay đều được tự do yêu đương tìm hiểu. Bố mẹ họ đều tôn trọng ý kiến cá nhân của con cái nên khi tìm được người mình thương, muốn tiến tới hôn nhâu, cả hai đều phải báo với bố mẹ để gia đình chuẩn bị các thủ tục cho chuyện cưới xin.
Con trai, con gái người Nùng Dín ở huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang trước nay đều được tự do yêu đương tìm hiểu. Bố mẹ họ đều tôn trọng ý kiến cá nhân của con cái, nên khi tìm được người mình thương, muốn tiến tới hôn nhân, cả hai đều phải báo với bố mẹ để gia đình chuẩn bị các thủ tục cho chuyện cưới xin.
Cử người đi ướm hỏi là nghi thức đầu tiên trong hôn nhân của người Nùng Dín. Nghi thức này còn được gọi là dạm ngõ. Bố mẹ chàng trai sẽ cử mối mai hoặc ông chú, ông bác có uy tín trong gia đình để sang bên nhà gái hỏi ý kiến xem bố mẹ cô gái có đồng ý cho đôi trẻ thành vợ thành chồng hay không. Sau khi việc ướm hỏi đã thành, người đại diện sẽ về báo lại cho gia đình họ hàng bên nội để chuẩn bị các bước tiếp theo. Trong thời gian ấy, nếu nhà gái không đưa ra bất kỳ ý kiến nào về việc hủy bỏ kết thông gia, nhà trai sẽ sang nhà gái để làm lễ công nhận chính thức việc hứa gả này. Trước khi đám cưới diễn ra, người Nùng Dín có 3 lần đến nhà gái làm thủ tục mối mai. Khi được nhà gái mổ gà, thết đãi rượu thịt, coi như tăng thêm sự gắn bó, thân thiết giữa hai nhà. Tiệc rượu xong xuôi, ra về nhà trai sẽ không quên hẹn ngày sang nói chuyện làm thủ tục ăn hỏi và nhận thách cưới từ nhà gái.
Cử người đi ướm hỏi là nghi thức đầu tiên trong hôn nhân của người Nùng Dín. Nghi thức này còn được gọi là dạm ngõ. Bố mẹ chàng trai sẽ cử mối mai hoặc ông chú, ông bác có uy tín trong gia đình để sang bên nhà gái hỏi ý kiến xem bố mẹ cô gái có đồng ý cho đôi trẻ thành vợ thành chồng hay không. Sau khi việc ướm hỏi đã thành, người đại diện sẽ về báo lại cho gia đình họ hàng bên nội để chuẩn bị các bước tiếp theo. Trong thời gian ấy, nếu nhà gái không đưa ra bất kỳ ý kiến nào về việc hủy bỏ kết thông gia, nhà trai sẽ sang nhà gái để làm lễ công nhận chính thức việc hứa gả này. Trước khi đám cưới diễn ra, người Nùng Dín có 3 lần đến nhà gái làm thủ tục mối mai. Khi được nhà gái mổ gà, thết đãi rượu thịt, coi như tăng thêm sự gắn bó, thân thiết giữa hai nhà. Tiệc rượu xong xuôi, ra về nhà trai sẽ không quên hẹn ngày sang nói chuyện làm thủ tục ăn hỏi và nhận thách cưới từ nhà gái.
Lễ vật thách cưới gồm một bộ quần áo, trang sức truyền thống dành cho cô dâu. Lợn khoảng 60 – 80 cân cùng 30 – 40 lít rượu để tiếp họ hàng. Thêm đó là những cặp bánh dày mịn dẻo, mục đích chúc đôi trẻ có cuộc sống hạnh phúc, tròn đầy. Bộ trang sức, bộ quần áo truyền thống dành cho cô dâu cũng mang hàm ý từ nay công nhận cô gái là dâu con trong nhà.
Lễ vật thách cưới gồm một bộ quần áo, trang sức truyền thống dành cho cô dâu. Lợn khoảng 60 - 80 cân, cùng 30 - 40 lít rượu để tiếp họ hàng. Thêm đó là những cặp bánh dày mịn dẻo, mục đích chúc đôi trẻ có cuộc sống hạnh phúc, tròn đầy. Bộ trang sức, bộ quần áo truyền thống dành cho cô dâu cũng mang hàm ý từ nay công nhận cô gái là dâu con trong nhà.
Ngày rước dâu, chú rể và phù rể sẽ được những người có uy tín trong gia đình tự tay thắt dải lụa đào tượng trưng cho sự tốt lành, may mắn trên y phục.
Ngày rước dâu, chú rể và phù rể sẽ được những người có uy tín trong gia đình tự tay thắt dải lụa đào tượng trưng cho sự tốt lành, may mắn trên y phục.
Trong quan niệm của người Nùng Dín, sợi vải đỏ cũng còn mang ý nghĩa tượng trưng cho ông tơ bà nguyệt đã se duyên đôi lứa.
Trong quan niệm của người Nùng Dín, sợi vải đỏ cũng còn mang ý nghĩa tượng trưng cho ông tơ bà nguyệt đã se duyên đôi lứa.
Trong đám cưới, nhà gái sẽ phải chuẩn bị các đồ vật cho cô dâu như: 1 đôi chăn, 1 đôi chiếu, gối nằm và đồ dùng sinh hoạt khác gọi là “của hồi môn” cho con gái.
Trong đám cưới, nhà gái sẽ phải chuẩn bị các đồ vật cho cô dâu như: 1 đôi chăn, 1 đôi chiếu, gối nằm và đồ dùng sinh hoạt khác gọi là “của hồi môn” cho con gái.
Việc đầu tiên khi đoàn đón dâu từ nhà trai đến nhà gái thì bên cầu thang sẽ để 1 chậu nước, nhà gái sẽ té nước vào chú rể và một số thành viên trong đoàn. Ý nghĩa của việc này là để xua đuổi bệnh tật, vận hạn của chú rể, chú rể bị té nước càng nhiều thì càng may mắn. Sau khi té nước xong đoàn đón dâu mới được vào trong nhà.
Việc đầu tiên khi đoàn đón dâu từ nhà trai đến nhà gái thì bên cầu thang sẽ để 1 chậu nước, nhà gái sẽ té nước vào chú rể và một số thành viên trong đoàn. Ý nghĩa của việc này là để xua đuổi bệnh tật, vận hạn của chú rể, chú rể bị té nước càng nhiều thì càng may mắn. Sau khi té nước xong đoàn đón dâu mới được vào trong nhà.
Đoàn đón dâu của người Nùng thường là 6, 8 hoặc 10 người. Bởi theo quan niệm của người Nùng, số chẵn là số may mắn (đủ đôi, đủ cặp).
Đoàn đón dâu của người Nùng thường là 6, 8 hoặc 10 người. Bởi theo quan niệm của người Nùng, số chẵn là số may mắn (đủ đôi, đủ cặp).
Khi cô dâu tới cửa nhà trai, thầy cúng sẽ làm lễ cúng vào cửa.
Khi cô dâu tới cửa nhà trai, thầy cúng sẽ làm lễ cúng vào cửa.
Nghi thức này để bố cáo với các vị thần chấp thuận người con gái ấy trở thành thành viên trong nhà.
Nghi thức này để bố cáo với các vị thần chấp thuận người con gái ấy trở thành thành viên trong nhà.
Người Nùng Dín cũng có tục lệ chọn người phụ nữ đức hạnh, có gia đình hạnh phúc, có đủ con trai con gái để trải chiếu trong buồng cô dâu, chú rể. Đây là phong tục mang tính tượng trưng với ý nghĩa cầu mong cho đôi trai gái hạnh phúc, mau có con cái nối dõi tông đường.
Người Nùng Dín cũng có tục lệ chọn người phụ nữ đức hạnh, có gia đình hạnh phúc, có đủ con trai con gái để trải chiếu trong buồng cô dâu, chú rể. Đây là phong tục mang tính tượng trưng với ý nghĩa cầu mong cho đôi trai gái hạnh phúc, mau có con cái nối dõi tông đường.
Trải qua những biến thiên của thời gian, nghi lễ cưới hỏi của người Nùng đã có nhiều thay đổi theo chiều hướng tiên tiến, song vẫn giữ được nét đặc trưng truyền thống, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trải qua những biến thiên của thời gian, nghi lễ cưới hỏi của người Nùng đã có nhiều thay đổi theo chiều hướng tiên tiến, song vẫn giữ được nét đặc trưng truyền thống, đậm đà bản sắc dân tộc.
Kết thúc nghi lễ truyền thống, mọi người trong họ và khách mời cùng thưởng thức sản vật núi rừng, mừng hạnh phúc cô dâu chú rể, mừng gia tộc thêm một gia đình mới. Lễ cưới của dân tộc Nùng là phong tục đặc sắc, truyền thống văn hóa lâu đời, không chỉ thể hiện lòng biết ơn, sự mong muốn mà ở đó còn thể hiện tinh thần đoàn kết và sức mạnh của cộng đồng.
Kết thúc nghi lễ truyền thống, mọi người trong họ và khách mời cùng thưởng thức sản vật núi rừng, mừng hạnh phúc cô dâu chú rể, mừng gia tộc thêm một gia đình mới. Lễ cưới của dân tộc Nùng là phong tục đặc sắc, truyền thống văn hóa lâu đời, không chỉ thể hiện lòng biết ơn, sự mong muốn mà ở đó còn thể hiện tinh thần đoàn kết và sức mạnh của cộng đồng.

Theo thống kê, dân tộc Nùng chiếm trên 38% dân số của huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang. Cộng đồng người Nùng có nét văn hóa truyền thống độc đáo thể hiện trong kiến trúc nhà ở, trang phục, tiếng nói, các nghi thức, lễ hội truyền thống, dân ca, dân vũ. 

Những năm qua, đồng bào dân tộc Nùng luôn nỗ lực gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp, đi đôi với xóa bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc nơi miền đất “vỏ cây vàng”.

Tin cùng chuyên mục
Cây cà phê xứ lạnh, mở hướng làm giàu cho đồng bào DTTS huyện Đăk Glei

Cây cà phê xứ lạnh, mở hướng làm giàu cho đồng bào DTTS huyện Đăk Glei

Dọc theo hai bên những cung đường vào với các xã phía Bắc của huyện Đăk Glei (Kon Tum) là những đồi cà phê xứ lạnh xanh tốt. Với đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS), đây không chỉ là loại cây trồng giúp cho họ vươn lên thoát nghèo mà còn mở hướng làm giàu trên chính mảnh đất quê hương.