Analytic
Thứ Sáu, ngày 23 tháng 08 năm 2019, 09:25:27
CHUYÊN TRANG
CÁC CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA
CHƯƠNG TRÌNH 1719 * NÔNG THÔN MỚI * GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG

Dân tộc Tày đang đứng trước nguy cơ không bảo tồn được chữ viết

Nga Anh (T/h) - 13:28, 22/08/2021

Đó là thông tin đáng chú ý trong kết quả khảo sát, đánh giá thực trạng sử dụng tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số (Tày, Thái, Dao) trên địa bàn tỉnh Cao Bằng do UBND tỉnh Cao Bằng thực hiện. Kết quả này mới được thông báo bằng văn bản ban hành ngày 29/7/2021

Then Bế Sơn Trung, xóm Bản Co, xã Triệu Ẩu, huyện Phục Hòa (Cao Bằng) là một trong những thầy then biết chữ Nôm Tày
Then Bế Sơn Trung, xóm Bản Co, xã Triệu Ẩu, huyện Phục Hòa (Cao Bằng) là một trong những thầy then biết chữ Nôm Tày (Ảnh Ngọc Ánh)

Cao Bằng là tỉnh miền núi, vùng cao, biên giới, thuộc phía Đông Bắc của Tổ quốc với nhiều dân tộc cùng sinh sống, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm hơn 94,87%. Trong đó, dân tộc Tày đông nhất chiếm 40,83%, tiếp sau là dân tộc Nùng 29,81%, Mông 11,65%, Dao 10,36%...

Kết quả khảo sát cho thấy, hiện nay, dân tộc Tày cơ bản vẫn bảo tồn tốt tiếng nói riêng của dân tộc mình. 80% người Tày thường xuyên sử dụng tiếng Tày làm ngôn ngữ giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày.

Tuy nhiên, xu hướng ở hầu hết các địa phương có dân tộc Tày sinh sống, đặc biệt trong các gia đình ở khu vực thị trấn, thành phố, các gia đình trẻ và gia đình có bố mẹ là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước chủ yếu giao tiếp trong gia đình bằng tiếng phổ thông (tiếng Việt).

Chính vì vậy ở những khu vực này, trẻ em dân tộc Tày ít nói tiếng dân tộc, chủ yếu sử dụng tiếng phổ thông và điều này đã làm cho tiếng Tày tự mai một chính trong nội bộ con em dân tộc Tày.

Riêng tại hai địa phương Hòa An và thành phố Cao Bằng, thế hệ trẻ dân tộc Tày hầu như ít người biết nói tiếng mẹ đẻ, những người biết cũng ít sử dụng tiếng nói của dân tộc Tày trong giao tiếp.

Về chữ viết, dân tộc Tày có chữ Nôm Tày, nhưng hiện nay không còn duy trì chữ viết riêng, chỉ còn một phần nhỏ trong hệ thống sách cúng, sách Then, sách của thầy cúng và một số người hành nghề thầy cúng. Số người biết về chữ Nôm Tày hầu như không còn. Trong các nghi lễ như: tang ma, giải hạn, thượng thọ, xem ngày giờ..., đa số các thầy tào dân tộc Tày vẫn sử dụng chữ Hán.

Các thầy tào biết viết chữ Hán, tuy nhiên chỉ học theo lối chép lại văn bản chứ không được truyền dạy bài bản. Một số sách chữ Nôm Tày, chữ Hán hiện vẫn đang được lưu giữ trong các gia đình làm nghề thầy Tào.

Về ngữ văn dân gian, dân tộc Tày vẫn còn lưu giữ, tuy nhiên chỉ một số ít nghệ nhân cao tuổi mới nắm được nên nguy cơ mai một cao.

Kết quả khảo sát, đánh giá thực trạng sử dụng tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số (Tày, Thái, Dao) trên địa bàn tỉnh Cao Bằng (Ảnh chụp trang đầu và trang cuối)
Kết quả khảo sát, đánh giá thực trạng sử dụng tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số (Tày, Thái, Dao) trên địa bàn tỉnh Cao Bằng (Ảnh chụp trang đầu và trang cuối)

Trong khi đó, người Dao sinh sống ở Cao Bằng có khoảng gần 55.000 người, có hai nhóm Dao đỏ và Dao Tiền cư trú tập trung tại các huyện: Bảo Lâm, Bảo Lạc, Nguyên Bình, Thạch An.

Hiện nay, dân tộc Dao vẫn giữ được tiếng nói của dân tộc mình và sử dụng giao tiếp hàng ngày; chỉ có một số ít các gia đình người Dao ở thị trấn, thành phố có bố mẹ là công chức, viên chức nhà nước hoặc kết hôn với người dân tộc khác ít biết hoặc ít sử dụng tiếng nói dân tộc Dao. Trẻ em người Dao trên địa bàn tỉnh được cha ông truyền dạy tiếng mẹ đẻ và sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình trong giao tiếp hàng ngày.

Người Dao cũng có chữ viết là một hệ thống ký tự chữ Hán được phiên âm ra tiếng Dao (hay nói cách khác, người Dao mượn chữ Hán để ghi chép tiếng nói của mình). Hệ thống chữ viết này được các bậc trí thức người Dao trước đây sử dụng trong mọi văn tự, từ phản ánh mọi mặt đời sống vật chất, tinh thần, sách lịch sử, các bài hát, bài cúng đến ghi chép ngày, tháng, thơ văn...

Hiện nay, ở hầu hết các gia đình dân tộc Dao có người cao tuổi (từ 70 tuổi trở lên) còn giữ được nhiều cuốn sách cổ do ông cha để lại. Những người nắm giữ tri thức chữ viết của người Dao chủ yếu là những người thực hành nghi lễ tín ngưỡng trong cộng đồng người Dao như Thầy mo, thầy tào.

Các sách viết tay ghi chép về các nghi thức cúng tế hiện nay còn được các thầy mo, thầy tào lưu giữ. Ngoài thầy mo và thầy tào, trong cộng đồng người Dao rất hiếm người biết đọc các cuốn sách cổ của người Dao, thậm chí nhiều thầy mo chỉ biết đọc chữ nhưng lại không dịch được nội dung...

Theo kết quả khảo sát của UBND tỉnh Cao Bằng, các bản sách dạy chữ của người Dao đều được viết tay trên giấy dó. Hiện, chữ viết của người Dao hiện nay đang có nguy cơ bị mai một cao, do vậy cần phải có những biện pháp bảo tồn, lưu giữ chữ viết.

Thực hiện công tác sưu tầm, bảo tồn, Bảo tàng tỉnh Cao Bằng hiện đang lưu giữ 39 đầu sách chữ Hán và Nôm Tày sử dụng trong nghi lễ của thầy tào dân tộc Tày và 22 đầu sách sưu tầm được trong cộng đồng người Dao.

Từ năm 2013 đến năm 2020, tỉnh Cao Bằng đã tổ chức bồi dưỡng tiếng Tày cho cán bộ, công chức, viên chức được 78 lớp với 5.284 lượt người tham gia. Ngoài ra, bằng các nguồn xã hội hóa, tại các huyện đã mở các lớp hát then, đàn tính (tiếng Tày) hoặc thông qua các câu lạc bộ để truyền dạy cho con em các dân tộc trong huyện, nhằm bồi dưỡng, phát huy, gìn giữ giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.