Analytic
Thứ Sáu, ngày 23 tháng 08 năm 2019, 09:25:27
CHUYÊN TRANG
CÁC CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA
CHƯƠNG TRÌNH 1719 * NÔNG THÔN MỚI * GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG

Tỷ lệ bà mẹ sinh con tại các cơ sở y tế của 60 xã ở các tỉnh khó khăn chỉ khoảng 30%

Thúy Hồng - 21:52, 16/11/2022

Đó là thông tin được đưa ra Hội thảo Phổ biến kết quả đánh giá đầu vào và nhu cầu dự án “Không để ai bị bỏ lại phía sau: Các can thiệp đổi mới sáng tạo nhằm giảm tử vong mẹ tại các vùng dân tộc ít người đặc biệt khó khăn của Việt Nam” do UNFPA phối hợp với Bộ Y tế tổ chức.

Trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam - bà Naomi Kitahara cho rằng Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể trong cải thiện sức khỏe sinh sản trong vòng 20 năm qua
Trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam - bà Naomi Kitahara cho rằng Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể trong cải thiện sức khỏe sinh sản trong vòng 20 năm qua

Theo đánh giá của UNFPA, chỉ 11% bà mẹ thuộc các dân tộc ít người tại 60 xã ở các tỉnh khó khăn nhất, đó là Bắc Kạn, Lai Châu, Sơn La, Đắk Nông, Kon Tum và Gia Lai được khám thai ít nhất 4 lần. Tỷ lệ bà mẹ sinh con tại các cơ sở y tế chỉ khoảng 30%, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ trung bình cả nước là 96%.

Đó là kết quả "Nghiên cứu đánh giá chỉ số đầu vào và xác định nhu cầu can thiệp sức khỏe bà mẹ dân tộc ít người tại 6 tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên" của nhóm dự án Trường Đại học Y tế Công cộng. 60 xã trọng điểm thuộc đối tượng nghiên cứu là các xã dân tộc ít người, thuộc vùng sâu vùng xa, vùng rất khó tiếp cận với điều kiện kinh tế - xã hội cực kỳ khó khăn và có tỷ lệ sinh con tại nhà cao. Các trạm y tế xã tại địa bàn nghiên cứu không có đủ các dịch vụ, xét nghiệm cơ bản, cũng như các trang thiết bị thiết yếu phục vụ việc khám thai và sinh con cho các bà mẹ. Với năng lực chuyên môn hạn chế, các cơ sở gặp nhiều khó khăn trong xử trí các tai biến thai sản có thể gây ra tử vong mẹ cao.

Chỉ 53% bà mẹ ở các xã này sử dụng biện pháp tránh thai (tỷ lệ trung bình cả nước là 72%) và nhu cầu kế hoạch hóa gia đình không được đáp ứng là 18% (cao hơn gần gấp đôi so với tỷ lệ trung bình cả nước là 10%). Đặc biệt đối với phụ nữ dân tộc Mông, tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai chỉ là 41% và nhu cầu kế hoạch hóa gia đình không được đáp ứng là 21%; đối với phụ nữ dân tộc Thái, tỷ lệ này lần lượt là 39% và 49%.

PGs.Ts. Dương Minh Đức - đại diện nhóm nghiên cứu cho biết, hầu hết bà mẹ dân tộc ít người và các thành viên trong gia đình họ chưa nhận thức được đầy đủ về tầm quan trọng của việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ, đặc biệt là việc nhận biết các dấu hiệu nguy hiểm trong quá trình mang thai và sinh con, cũng như tầm quan trọng của việc sinh con tại các cơ sở y tế.

"Chúng ta cũng nhìn ra hạn chế trong việc cung cấp dịch vụ sản khoa cho bà mẹ và đáp ứng nhu cầu kế hoạch hóa gia đình. Các con số cho thấy bức tranh toàn cảnh không được sáng sủa cho lắm, nhưng tôi cho rằng những con số này sẽ là nền tảng để chúng ta đánh giá, nhìn nhận và thay đổi", PGs.Ts. Dương Minh Đức nói.

Trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam Naomi Kitahara cho rằng, thông qua các kết quả nghiên cứu về thực trạng, nguyên nhân sẽ là bằng chứng mạnh mẽ cho việc xây dựng các can thiệp đổi mới sáng tạo nhằm bảo đảm cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình có chất lượng để giảm tử vong mẹ. Từ đó góp phần vào nỗ lực của Việt Nam trong việc đạt được mục tiêu về giảm tỷ lệ tử vong mẹ vào năm 2030.

Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể trong cải thiện sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục ở cấp độ quốc gia trong vòng 20 năm qua và là 1 trong 6 quốc gia trên thế giới đạt được Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ số 5 về giảm tử vong mẹ vào năm 2015.

Tỷ lệ các bà mẹ sinh con tại các cơ sở y tế của 60 xã ở các tỉnh khó khăn chỉ khoảng 30%
Tỷ lệ các bà mẹ sinh con tại các cơ sở y tế của 60 xã ở các tỉnh khó khăn chỉ khoảng 30%

Theo ông Đinh Anh Tuấn - Vụ trưởng Vụ Sức khỏe bà mẹ và trẻ em, Bộ Y tế cho rằng: Dù Việt Nam đã đạt thành tựu rất lớn, song vẫn còn nhiều thách thức. Trước mắt đến từ sự chênh lệch và bất bình đẳng trong việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục ở các nhóm dân tộc và vùng miền khác nhau.

"Suốt thời gian qua, công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em luôn là một ưu tiên hàng đầu của Chính phủ, nhưng các chỉ số về bà mẹ trẻ em còn thấp hơn nhiều lần so với các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Nguyên nhân đến từ sự khác biệt vùng miền, phong tục, tập quán. Để tránh tụt hậu với các nước, chúng ta cần những can thiệp đổi mới sáng tạo. Đó là kế thừa can thiệp trước đây đã được coi là hiệu quả, cộng với những can thiệp phù hợp với yếu tố thời đại, chẳng hạn công tác tư vấn, cung cấp thông tin, tận dụng sự phát triển của công nghệ để khám chữa bệnh từ xa…", ông Đinh Anh Tuấn cho biết.

Ông Đinh Anh Tuấn cho biết thêm giảm tử vong mẹ cho bà con dân tộc ít người là ưu tiên hàng đầu trong chương trình nghị sự về phát triển của Chính phủ. Kết quả nghiên cứu giúp Bộ Y tế, Sở Y tế các tỉnh xây dựng chính sách, kế hoạch thực hiện để đáp ứng hiệu quả nhu cầu thực tế của phụ nữ dân tộc ít người và gia đình họ, bảo đảm mọi ca sinh nở đều an toàn.

Dự án: “Không để ai bị bỏ lại phía sau: Các can thiệp đổi mới sáng tạo nhằm giảm tử vong mẹ tại các vùng dân tộc ít người của Việt Nam”, do Quỹ MSD for Mothers và MSD Việt Nam tài trợ với tổng ngân sách 1,2 triệu USD và UNFPA Việt Nam 810 nghìn USD. Dự án nhằm tăng cường khả năng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục tích hợp, chất lượng và tự nguyện cho nhóm dân tộc thiểu số; nâng cao năng lực quản lý xử trí cấp cứu sản khoa ở miền núi, vùng sâu, vùng xa; và xây dựng mạng lưới cô đỡ thôn bản ở các địa phương vùng sâu, vùng xa dân tộc ít người.

Giám đốc Điều hành MSD Việt Nam Jennifer Coxcho chia sẻ: Chúng tôi tin trưởng rằng từ những kết quả nghiên cứu, chúng ta sẽ có được sự hiểu biết sâu sắc hơn về thực trạng của các vấn đề và đưa ra những kế hoạch sắp tới giúp mang lại những lợi ích thiết thực cho phụ nữ Việt Nam và tạo nền tảng cho cộng đồng và xã hội phát triển vì các thế hệ mai sau.