Analytic
Thứ Sáu, ngày 23 tháng 08 năm 2019, 09:25:27
CHUYÊN TRANG
CÁC CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA
CHƯƠNG TRÌNH 1719 * NÔNG THÔN MỚI * GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG

Chương trình 1719

Thách thức trong mục tiêu nâng cao chất lượng dân số vùng miền Tây Nghệ An: Nhận diện nguyên nhân tạo ra "vùng trũng" về chất lượng dân số (Bài 1)

Thanh Hải - 10:32, 09/07/2024

LTS: Nhiều hủ tục vẫn còn; tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết chưa được đẩy lùi; tỷ lệ suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em vẫn cao… đang là những thông số đáng lo ngại về chất lượng dân số ở vùng đồng bào DTTS và miền núi miền Tây Nghệ An. Nguồn lực đầu tư thực hiện mục tiêu cải thiện tình trạng dân số, nâng cao thể trạng, tầm vóc người DTTS... đặt ra tại Chương trình MTQG phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn I: Từ 2021 - 2025 (Chương trình MTQG 1719) đang là cơ hội, nhưng cũng không kém phần thách thức đối với các địa phương trong khu vực này. Do vậy, nếu không nhận diện rõ những hạn chế, tồn tại cốt lõi để từng bước giải quyết, thì khó đạt kỳ vọng.

Một góc xã Mường Lống, huyện Kỳ Sơn - Nơi cư ngụ của đồng bào Mông, với những tập tục cũ còn tồn tại như tảo hôn và hôn nhân cận huyết khiến cho chất lượng dân số bị ảnh hưởng
Một góc xã Mường Lống, huyện Kỳ Sơn - Nơi cư ngụ của đồng bào Mông, với những tập tục cũ còn tồn tại như tảo hôn và hôn nhân cận huyết khiến cho chất lượng dân số bị ảnh hưởng

Những yếu tố tác động ảnh hưởng đến chất lượng dân số bao gồm, phát triển kinh tế, giáo dục, y tế, môi trường và các yếu tố khác như văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao... Ở vùng miền Tây xứ Nghệ, những yếu tố này đều thấp, yếu và thiếu đang khiến cho vấn đề chất lượng dân số nơi đây, luôn là vấn đề đáng lo ngại; là trăn trở của các cấp chính quyền địa phương.

“Vùng trũng” về chất lượng dân số 

Dân số vùng đồng bào DTTS và miền núi tỉnh Nghệ An có 491.267 người, chiếm 14,76% dân số toàn tỉnh, nhưng sinh sống chủ yếu ở vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới; địa hình hiểm trở, bị chia cắt bởi nhiều núi cao, sông suối, giao thông đi lại khó khăn, thường xuyên bị thiên tai, lũ lụt.

Nghệ An có 252 xã, 1.339 thôn, bản thuộc vùng đồng bào DTTS và miền núi (trong đó có 106 xã thuộc khu vực III, 100 xã khu vực II, 46 xã khu vực I; 1.182 thôn bản đặc biệt khó khăn). Ở khu vực này hiện đang có 47 thành phần DTTS sinh sống, nhưng có 5 DTTS chiếm tỷ lệ dân số cao, là Thái, Thổ, Khơ mú, Mông và Ơ Đu.

Trong khi đó, chất lượng giáo dục còn thấp, tình trạng học sinh bỏ học diễn ra khá phổ biến, các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật như mua bán, vận chuyển, sử dụng ma túy; di cư trái pháp luật vẫn còn phức tạp. Nhiều phong tục tập quán , mê tín dị đoan vẫn còn khá nặng nề. 

KT-XH phát triển chậm và không đồng đều giữa các vùng và giữa các dân tộc khác nhau. Đào tạo nghề, xuất khẩu lao động, giải quyết việc làm vẫn gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ hộ nghèo cao, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các DTTS, nhất là các xã vùng sâu vùng xa kém xa so với các huyện đồng bằng, thành thị.

Qua đánh giá của ngành chức năng tỉnh Nghệ An, vùng miền Tây xứ Nghệ, là khu vực còn nhiều khó khăn, vất vả. Dẫn chứng rõ nhất, là tỷ lệ hộ nghèo trung bình của vùng đang ở mức 8%; trong đó, có nhiều huyện có tỷ lệ hộ nghèo là 2 con số, gồm Kỳ Sơn 49%, Quế Phong 65%, Tương Dương 29%, Con Cuông 17%...

Bản Huồi Pủng xã Hữu Khuông là bản nghèo nhất của một xã nghèo nhất huyện Tương Dương
Bản Huồi Pủng xã Hữu Khuông là bản nghèo nhất của một xã nghèo nhất huyện Tương Dương

Cùng với tỷ lệ hộ nghèo cao, thì những đặc trưng hạn chế của vùng đất, như mưa lũ thất thường, độ dốc cao, chia cắt bởi nhiều sông suối, bản làng nằm rải rác... đã dẫn đến chất lượng dân số thấp, là điều khó tránh. 

Qua thống kê của Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình tỉnh Nghệ An, một số chỉ số phản ánh chất lượng dân số khu vực DTTS và miền núi xứ Nghệ thấp. Đó là tuổi thọ trung bình 70,7 tuổi (cả nước là 73,6 tuổi) thấp hơn bình quân chung của cả nước là 2,9 năm. Mức sinh ở một số DTTS hiện ở mức rất cao so với trung bình chung của cả nước. Số con trung bình của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ là 2,3 con so với cả nước là 2,09 con. Tỷ lệ thấp còi ở trẻ em trong đồng bào DTTS chiếm 31,4%. Tình trạng sinh non, suy dinh dưỡng, thể trạng yếu, dị tật bẩm sinh, tỷ lệ tử vong ở trẻ em cao. Tỷ lệ dân số bị thiểu năng trí tuệ chiếm khoảng 1,5%...

Nhận diện nguyên nhân

Ông Phan Văn Huê - Phó chi cục trưởng Phụ trách Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình tỉnh Nghệ An cho biết: Tại vùng đồng bào DTTS và miền núi Nghệ An, hiện các chỉ số, dân số, tuổi thọ đều thấp hơn bình quân cả nước; và giữa các thành phần dân tộc cũng có sự chênh lệch đáng kể. Theo đánh giá của Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, chất lượng dân số vùng DTTS và miền núi còn thấp; đặc biệt là các người Mông ở Kỳ Sơn, Đan Lai ở Con Cuông, Ơ đu, Khơ Mú ở Tương Dương. Các cộng đồng DTTS này hiện vẫn còn duy trì nhiều hủ tục, điều kiện sống khó khăn, tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết vẫn còn diễn ra phổ biến; tỷ lệ suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em còn cao…

Chúng tôi đã có nhiều chuyến ngược ngàn lên vùng DTTS và miền núi Nghệ An, điều đọng lại sau những chuyến đi vẫn là một vùng đất còn nhiều khó khăn. Lấy dẫn chứng từ chất lượng dân số đồng bào Đan Lai ở hai bản Búng và Cò Phạt thuộc xã Môn Sơn (Con Cuông) làm ví dụ. Theo ông Ngân Viết Trường - Phó Chủ tịch UBND xã Môn Sơn, bản Cò Phạt có tỷ lệ hộ nghèo là 98,23%, hộ cận nghèo là 1,77%; bản Búng có 115 hộ dân thì 100% đều là hộ nghèo.

Ông Trường nói: Đây là hai bản làng gần như biệt lập bởi giao thông đi lại khó khăn, bị ngăn cách bởi các con sông, suối. Người dân vẫn ở nhà sàn bằng tre nứa, không có đất sản xuất, không có đất ở do địa bàn sinh sống nằm trong vùng lõi Vườn quốc gia Pù Mát. Để sinh sống, nhiều người đã phát nương làm rẫy, trồng trọt, chăn nuôi và thu hái rau, quả từ rừng. Cuộc sống nhiều hộ mang nặng tính tự cung tự cấp.

Đồng bào Đan Lai ở vùng lõi Vườn quốc gia Pù Mát, xã Môn Sơn, huyện Con Cuông hãy còn rất khó khăn, điều này cũng phản chiếu chất lượng dân số đang rất thấp
Đồng bào Đan Lai ở vùng lõi Vườn quốc gia Pù Mát, xã Môn Sơn, huyện Con Cuông còn rất khó khăn, chất lượng dân số đang rất thấp

Ở vùng rẻo cao Kỳ Sơn, có một hủ tục đang tồn tại, có xu hướng tăng trở lại, chính là tảo hôn và hôn nhân cận huyết trong đồng bào Mông. Chỉ tính riêng trong 4 năm trở lại đây, huyện đã có trên 600 trường hợp tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống. Cụ thể hơn, năm 2020 toàn huyện có 164 trường hợp, năm 2021 có 147 trường hợp, năm 2022 có 171 trường hợp, năm 2023 có 229 trường hợp tảo hôn, tập trung nhiều ở các xã có đông đồng bào dân tộc Mông và Khơ Mú...

Điều kiện sống khó khăn do thiên tai, khí hậu khắc nghiệt; do nhận thức hạn chế; đặc biệt là tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết… đang khiến cho chất lượng dân số của đồng bào Mông ở Kỳ Sơn trở nên thấp hơn. Bí thư huyện ủy Kỳ Sơn Vi Hòe chia sẻ: Cả huyện có 21 xã, thị, thì có đến 19 xã với 171 bản thuộc vùng đặc biệt khó khăn. Diện tích của huyện thì nhiều nhưng chỉ có khoảng 1% đất bằng phẳng cho canh tác và sinh sống. Điều kiện tự nhiên mưa bão, lũ quét diễn biến bất thường.

Qua thống kê của Chi Cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình Nghệ An cho thấy, vùng đồng bào DTTS và miền núi tỉnh Nghệ An hiện có 106 xã thuộc khu vực III - xã đặc biệt khó khăn, với 1.182 thôn bản đặc biệt khó khăn. Điều đó càng khẳng định thêm về chất lượng cuộc sống, trình độ dân trí nơi này đang thấp; người dân chưa được bảo đảm đầy đủ các nhu cầu tối thiểu của cuộc sống. Và như vậy, việc nâng cao chất lượng dân số cho khu vực miền Tây xứ Nghệ thực sự không dễ dàng...

Tin cùng chuyên mục
Huyện Văn Lãng (Lạng Sơn): Tuyên truyền giảm thiểu tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong nhà trường

Huyện Văn Lãng (Lạng Sơn): Tuyên truyền giảm thiểu tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong nhà trường

Ngày 4/12, Phòng Lao động, Thương binh, Xã hội - Dân tộc huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã tổ chức Hội nghị truyền thông tuyên truyền “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống (TH-HNCHT) trong vùng đồng bào DTTS và miền núi năm 2024 tại Trường Phổ thông Dân tộc Bán trú, Trung học cơ sở xã Bắc La.