Nông dân tỉnh An Giang thu hoạch lúaTừ “lúa - tôm” đến mô hình thuận thiên
Trao đổi với báo chí, Ts. Nguyễn Hồng Gấm, giảng viên Trường Đại học Nam Cần Thơ - người có công trình nghiên cứu về “Nông nghiệp tuần hoàn - mô hình phát triển kinh tế bền vững ĐBSCL” nhận định, nông nghiệp tuần hoàn hướng đến việc kéo dài vòng đời vật chất, tối ưu hóa tài nguyên, giảm phát thải và giảm tác động tiêu cực đến môi trường.
“Thực tế, nông nghiệp tuần hoàn ở ĐBSCL đã có nhiều mô hình, nhưng mới ở bước khởi đầu”, Ts. Nguyễn Hồng Gấm cho hay
Trong thời gian qua, nhiều địa phương như An Giang, Cà Mau, Vĩnh Long, các mô hình đã cho thấy hiệu quả rõ rệt - nổi bật là mô hình luân canh “lúa - tôm”.
Ông Nguyễn Văn Đông, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Vĩnh Long, phân tích: Đơn cử như chất thải của tôm được sử dụng làm nguồn dinh dưỡng cho lúa, còn rơm rạ, cỏ dại sau vụ lúa lại trở thành thức ăn tự nhiên cho tôm. Chu trình khép kín giúp giảm sử dụng hóa chất, tăng năng suất và nâng giá trị sản phẩm.
Với hình thức canh tác thuận thiên, ít sử dụng hóa chất trong canh tác, nông dân đang tạo ra những sản phẩm lúa gạo đạt chuẩn hữu cơ, VietGAP, GlobalGAP, đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường xuất khẩu nước ngoài.
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, mỗi năm ĐBSCL thải ra 26 - 27 triệu tấn rơm, nhưng hơn 70% bị đốt hoặc vùi trực tiếp xuống đồng ruộng, gây ô nhiễm không khí và phát thải khí methane. Thời gian qua, nhiều địa phương đã triển khai các mô hình tận dụng rơm rạ làm nấm rơm, phân bón sinh học, thức ăn gia súc và nhựa sinh học, góp phần giảm phát thải và tạo sinh kế cho nông dân.
Dù vậy, chỉ khoảng 50% phụ phẩm rơm rạ được tái sử dụng, phần còn lại vẫn bị lãng phí. Ngoài ra, sản xuất lúa gạo hàng năm cũng tạo ra 4 triệu tấn trấu và 2 triệu tấn cám, nếu tận dụng hiệu quả sẽ nâng cao chuỗi giá trị ngành hàng gạo - sản phẩm chủ lực của vùng.
Nông dân xã Tây Yên, tỉnh An Giang, thu hoạch tôm trên ruộng lúa. (Ảnh: TT)Không chỉ trong trồng trọt, lĩnh vực chăn nuôi và thủy sản cũng phát sinh lượng lớn chất thải. Vùng ĐBSCL mỗi năm có đến 2,78 triệu tấn chất thải từ chăn nuôi, phần lớn vẫn xử lý thô sơ. Với sản lượng trái cây hàng triệu tấn, lượng phụ phẩm như vỏ sầu riêng, vỏ khóm, cuống chuối… cũng là thách thức lớn nếu không được xử lý bằng công nghệ tuần hoàn.
“Nếu giải được bài toán phụ phẩm nông nghiệp và áp dụng thành công thì mô hình nông nghiệp toàn hoàn không chỉ giúp ứng phó biến đổi khí hậu, mà còn gia tăng giá trị sản xuất trên cùng đơn vị diện tích, hướng đến mục tiêu phát triển vùng bền vững, thân thiện với môi trường”, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Vĩnh Long Nguyễn Văn Đông cho biết.
Cần hành lang pháp lý rõ ràng để mô hình phát huy hiệu quả
Dù được xem là hướng đi tất yếu, nông nghiệp tuần hoàn ở ĐBSCL vẫn còn đối mặt nhiều rào cản. Theo Ts. Nguyễn Hồng Gấm, để mô hình nông nghiệp tuần hoàn phát triển, cần có hành lang pháp lý rõ ràng và chính sách khuyến khích phù hợp. Nhà nước cần sớm bổ sung, hoàn thiện Luật Bảo vệ môi trường, điều chỉnh quy hoạch năng lượng, giảm phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch và gắn phát triển kinh tế tuần hoàn với Cách mạng công nghiệp 4.0.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp nông nghiệp cần thay đổi tư duy sản xuất - không chỉ dừng ở lợi nhuận, mà còn cần xác định mục tiêu ưu tiên trong sản xuất, kết hợp truyền thông và đổi mới công nghệ để vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế, vừa hướng đến phát triển bền vững.
ĐBSCL là vùng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn và sụt lún đất, nên việc chuyển sang mô hình nông nghiệp tuần hoàn không chỉ là lựa chọn, mà là con đường tất yếu.
Từ những mô hình lúa - tôm, Biogas đến tái chế phụ phẩm thủy sản, khu vực này đang từng bước chứng minh “phát triển xanh” không phải là khẩu hiệu, mà là chiến lược sinh tồn - bảo vệ môi trường, gìn giữ sinh kế cho hàng chục triệu người dân các tỉnh ĐBSCL.