Analytic
Thứ Sáu, ngày 23 tháng 08 năm 2019, 09:25:27
CHUYÊN TRANG
CÁC CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA
CHƯƠNG TRÌNH 1719 * NÔNG THÔN MỚI * GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG

Niềm tin và khát vọng ở địa bàn chiến lược Tây Nguyên

PV - 08:05, 21/06/2023

Vùng Tây Nguyên là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái, quốc phòng - an ninh và đối ngoại của cả nước. Phát triển Tây Nguyên nhanh, toàn diện và bền vững là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước và là nhiệm vụ xuyên suốt, trọng tâm, có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển của các địa phương trong vùng và cả nước.

Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên cùng vui ngày hội buôn làng.
Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên cùng vui ngày hội buôn làng

Tây Nguyên gồm 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng. Vùng đất chất chứa nhiều huyền thoại là nơi sinh sống của gần 6 triệu người, 54 dân tộc anh em; trong đó đồng bào DTTS gần 2,2 triệu người. Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã triển khai nhiều nghị quyết, tổ chức nhiều chương trình và tập trung nguồn lực đầu tư để phát triển Tây Nguyên.

Sức sống trên vùng đất bazan

Ngày nay, đi dọc Tây Nguyên chúng ta sẽ ấn tượng sâu sắc bởi màu cây trái, thảm xanh đại ngàn, sắc màu nông thôn mới và những đô thị sầm uất đã phủ tràn màu đất đỏ Bazan. Hàng chục năm qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm triển khai nhiều nghị quyết, tập trung nguồn lực lớn để phát triển vùng Tây Nguyên.

Nhất là khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khóa IX và Quyết định số 168 của Thủ tướng Chính phủ về “phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh - quốc phòng vùng Tây Nguyên”, nguồn lực tập trung đầu tư ngày càng cao, từng bước khơi dậy tiềm năng, lợi thế vùng đất chiến lược này. “Nhờ Đảng, Nhà nước chăm lo đầu tư, dẫn dắt đồng bào mình làm ăn, dân làng mình đã thay đổi tư duy phát triển kinh tế, xây dựng cuộc sống mới ngày càng ấm no, hạnh phúc”, ông Y Ngôn Knul, Bí thư Chi bộ, Người có uy tín ở buôn Triă, xã Ea Tul, huyện Cư M’gar, Đắk Lắk, chia sẻ.

Đi trên con đường bê-tông sạch đẹp nối các buôn làng Ê Đê, Phó Bí thư Đảng ủy xã Ea Tul, Y Tiếp Niê Knẽng tiếp chuyện, xã Ea Tul có 11 thôn, buôn; đồng bào DTTS hơn 98%. Từ nguồn lực đầu tư của Nhà nước, cùng với sự chung tay của người dân, sau 5 năm triển khai, năm 2016, Ea Tul đã đạt chuẩn xã nông thôn mới đầu tiên của huyện và là 1 trong 6 xã nông thôn mới tốp đầu của tỉnh. “Cốt lõi là sự đoàn kết, chung tay góp sức của Nhân dân; sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, Ea Tul mới được bộ mặt tươi mới như hôm nay”, đồng chí Y Tiếp Niê Knẽng khẳng định.

Giữa buôn Bó Cao thuộc xã Anh hùng Sơn Điền (huyện Di Linh, Lâm Đồng), chúng tôi gặp già K’Mùng, người có tên trong danh sách 140 người tham gia cách mạng của chiến khu Sơn Điền năm xưa. “Mình tham gia du kích từ năm 1960 và gia nhập Bộ đội Cụ Hồ từ năm 1971”, già K’Mùng mở lời. Người cựu chiến binh Khu 6 có nụ cười hiền lành này cũng từng băng rừng qua giúp nước bạn Campuchia tiêu diệt kẻ thù chung. “Kể không hết chuyện của vùng đất cách mạng này đâu. Giờ bà con mình lo giúp nhau làm ăn, phát triển kinh tế, chăm lo cho con em ăn học, chung tay xây dựng buôn làng. Xã đạt nông thôn mới rồi, giờ phải phấn đấu nâng cao”, già K’Mùng nói.

Tỉnh Lâm Đồng có 47 dân tộc sinh sống, trong đó đồng bào DTTS chiếm hơn 25,7%. Toàn tỉnh hiện có 5 huyện và 107/111 xã đạt chuẩn nông thôn mới, GRDP bình quân đầu người năm 2022 đạt 77,6 triệu đồng, cao nhất khu vực Tây Nguyên. “Đạt được những kết quả trên là nhờ sự quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ từ Trung ương và các bộ, ngành; sự nỗ lực của các cấp ủy, chính quyền địa phương và sự đồng thuận, ý thức tự vươn lên của người dân”, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng Trần Đình Văn, cho biết.

Ở phía bắc Tây Nguyên, các cấp, các ngành tỉnh Kon Tum đang quyết liệt triển khai nghị quyết của Tỉnh ủy về cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng cường thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh. Bà Y Pot - Chủ tịch Hội đồng quản trị Hợp tác xã Cộng đồng phụ nữ Đăk Viên, xã Tê Xăng, chia sẻ: “Định hướng phát triển Tây Nguyên thời gian qua của Đảng, Nhà nước rất phù hợp; nhờ đó đã thay đổi diện mạo đô thị và nông thôn trên vùng đất Bazan”.

Theo đánh giá của Bộ Chính trị, sau 20 năm thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khóa IX, vùng đất Tây Nguyên đã đổi thay thực sự. Quy mô kinh tế vùng tăng nhanh, năm 2020 đạt khoảng 287.000 tỷ đồng, gấp 14 lần năm 2002. GRDP bình quân giai đoạn 2002 - 2020 gần 8%, GRDP bình quân đầu người năm 2020 đạt 48 triệu đồng, gấp 10,6 lần năm 2002. Năm 2023, năm đầu các tỉnh Tây Nguyên triển khai thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị, được đặt trên nền tảng kinh tế xã hội khá thuận lợi, với tốc độ tăng trưởng của các tỉnh đạt từ 7,6 đến hơn 12%.

Tây Nguyên cũng đã trở thành vùng sản xuất một số nông sản chủ lực quy mô lớn, chiếm tỷ trọng cao; vùng du lịch sinh thái - văn hóa có sức hấp dẫn; giá trị văn hóa các dân tộc được bảo tồn, kế thừa và phát huy; hệ thống giáo dục, đào tạo được quan tâm đầu tư, mạng lưới y tế được củng cố; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học và bảo vệ nguồn nước được chú trọng; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm; niềm tin của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đối với Đảng, Nhà nước được củng cố, tăng cường…

Hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông, được quan tâm đầu tư, giúp cải thiện đáng kể sự kết nối giữa các tỉnh trong vùng, và giữa vùng với cả nước. Hiện nay, hệ thống giao thông liên vùng Tây Nguyên tương đối phát triển, với 19 km đường cao tốc và hơn 3,1 nghìn km đường quốc lộ kết nối với các tỉnh Duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ và các cảng biển, mở rộng cơ hội giao thương với các trung tâm lớn trong nước và các nước trong khu vực.

Toàn vùng có 3 sân bay, gồm Liên Khương, Buôn Ma Thuột và Pleiku. Gần đây, hàng loạt các dự án đường cao tốc nối liền Tây Nguyên với các tỉnh miền Đông Nam Bộ, miền trung đang được khởi động. Giao thông thuận tiện, chuỗi các đô thị Tây Nguyên nối liền vào nhau, những thành phố trong khu vực trở thành những đầu tàu kinh tế - xã hội toàn vùng.

Phát triển đột phá, toàn diện và bền vững

Tây Nguyên là vùng đất có nhiều tiềm năng, lợi thế để “kích hoạt” trở thành nguồn lực phát triển, với tổng diện tích đất nông nghiệp hơn 5 triệu ha, chiếm hơn 91% diện tích đất tự nhiên, trong đó khoảng 1/3 đất đỏ Bazan màu mỡ; vùng có tiềm năng lớn về phát triển công nghiệp năng lượng, giàu khoáng sản và là trung tâm sản xuất bôxít cả nước; khí hậu ôn hòa rất thích hợp cho phát triển nông nghiệp chất lượng cao; diện tích rừng hơn 3 triệu ha, đa dạng cảnh quan, địa hình, sông suối, thác nước cùng với nền văn hóa đặc sắc là tiềm năng lớn phát triển kinh tế lâm nghiệp và du lịch sinh thái, văn hóa.

Tuy nhiên, theo đánh giá, dù có nhiều tiềm năng và lợi thế nổi trội, nhưng Tây Nguyên chưa phát triển tương xứng. Mục tiêu phát triển Tây Nguyên được Thủ tướng Phạm Minh Chính đúc kết qua các yếu tố: “Đột phá, bao trùm, toàn diện và bền vững”. Tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 23 và xúc tiến đầu tư vùng, Thủ tướng chỉ đạo, Tây Nguyên phải tự lực tự cường, đi lên bằng bàn tay, khối óc và khung trời, mảnh đất của mình; lấy nguồn lực bên trong là cơ bản, đột phá và chiến lược lâu dài là quyết định.

Các địa phương phải phát triển hạ tầng chiến lược, gồm hạ tầng giao thông kết nối kinh tế Đông - Tây, Bắc - Nam, giao thông kết nối vùng. “Đường đi đến đâu văn minh đến đấy”, Thủ tướng gợi mở. Đồng thời, tập trung phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; phát triển văn hóa gắn với du lịch; phát triển bao trùm, toàn diện, bền vững xuất phát từ bài toán quy hoạch có tư duy đột phá và tầm nhìn chiến lược.

Giao thông phải đi trước. Khi hạ tầng giao thông hoàn chỉnh sẽ giúp các tỉnh Tây Nguyên hiện thực hóa ước mơ “xuyên Á”, đón dòng vốn đầu tư mới. Theo Thứ trưởng Giao thông vận tải Lê Anh Tuấn, Nghị quyết 23 xác định rõ quan điểm “Lấy phát triển kết cấu hạ tầng giao thông làm động lực, tạo dư địa cho phát triển vùng”. Giai đoạn vừa qua, được Đảng và Chính phủ quan tâm đầu tư hơn 95,6 nghìn tỷ đồng, hệ thống giao thông vùng Tây Nguyên đã được cải thiện đáng kể.

Theo Quy hoạch mạng lưới đường bộ đã được Thủ tướng phê duyệt, Bộ Giao thông vận tải dự kiến, tổng nhu cầu vốn đầu tư cho các tuyến cao tốc kết nối vùng Tây Nguyên khoảng 156.000 tỷ đồng. Đến năm 2030, phấn đấu hoàn thành một số hạ tầng giao thông quan trọng, như tuyến cao tốc Quy Nhơn - Pleiku, Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột, Gia Nghĩa - Chơn Thành, Tân Phú - Bảo Lộc, Bảo Lộc - Liên Khương; mở rộng, nâng cấp Cảng hàng không Liên Khương lên cấp 4E và Cảng hàng không Pleiku lên cấp 4C; mở rộng Cảng hàng không Buôn Ma Thuột; khôi phục, cải tạo tuyến đường sắt Tháp Chàm - Đà Lạt phục vụ khách du lịch.

Nghị quyết 23 đặt ra mục tiêu, Tây Nguyên đạt tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân giai đoạn 2021 - 2030 đạt từ 7 - 7,5%; đến năm 2030, GRDP bình quân đầu người đạt khoảng 130 triệu đồng... Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk Nguyễn Đình Trung khẳng định, Nghị quyết 23 là sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước đối với vùng Tây Nguyên, đáp ứng nguyện vọng của Đảng bộ, chính quyền, Nhân dân trong bối cảnh phát triển kinh tế và thực sự trở thành động lực phát triển cho các tỉnh trong vùng.

Lãnh đạo tỉnh Đắk Nông cũng nhìn nhận tương lai rộng mở. Bí thư Tỉnh ủy Đắk Nông Ngô Thanh Danh cho biết: “Với tiềm năng lớn về công nghiệp bôxít - nhôm, năng lượng tái tạo, du lịch sinh thái... Đắk Nông đặt mục tiêu trở thành tỉnh phát triển khá vào năm 2030 của vùng Tây Nguyên”.

Nông nghiệp, du lịch - dịch vụ, kinh tế rừng… được xác định là những “trụ cột” trong phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên. Giải pháp căn cơ phát triển Tây Nguyên nhanh, bền vững chính là từng địa phương phải đổi mới tư duy về liên kết vùng, nội vùng. “Việc liên kết, hợp tác phát triển giữa 5 tỉnh Tây Nguyên sẽ tạo động lực, sức mạnh tổng hợp để hỗ trợ nhau phát triển và giải quyết các vấn đề mang tính quốc gia, toàn cầu”, Bí thư Tỉnh ủy Lâm Đồng Trần Đức Quận gợi ý.

Có thể nói, liên kết là chìa khóa mở ra vận hội mới. Theo Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai Hồ Văn Niên, trước hết, cần sớm ban hành quy định, cơ chế liên kết vùng để cùng phát triển; quy hoạch không gian phát triển và xác định các lĩnh vực trọng tâm để đột phá, giúp Tây Nguyên khai thác tốt tiềm năng, lợi thế của từng địa phương.

Rừng Tây Nguyên có ảnh hưởng lớn tới đời sống kinh tế-xã hội của các dân tộc thiểu số, có vị trí quan trọng về an ninh chính trị, môi trường sinh thái, đa dạng sinh học và bảo vệ nguồn nước, điều tiết khí hậu cho vùng. Trung ương đề ra mục tiêu, đến năm 2030 tỷ lệ che phủ rừng Tây Nguyên đạt trên 47%.

Tại hội thảo “Phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp xanh, bền vững vùng Tây Nguyên gắn với quản lý, bảo vệ và phát triển rừng”, tổ chức tại Đắk Lắk mới đây, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh tin tưởng: “Với hệ sinh thái rừng được bảo tồn và phát triển; hình thành một số khu du lịch chất lượng cao, điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước; hình thành các vùng sản xuất lớn về cây công nghiệp, cây ăn quả, rau, hoa và trung tâm năng lượng… Với những lợi thế và tiềm năng, cùng với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân Tây Nguyên, tôi tin tưởng Tây Nguyên sẽ phát triển vượt bậc”.

Đề cập đến những thuận lợi, đặc điểm riêng của giáo dục Tây Nguyên, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn cho rằng: Trong 6 vùng kinh tế - xã hội, Tây Nguyên là vùng được Đảng, Quốc hội, Chính phủ đặc biệt quan tâm. Cả nước yêu quý và hướng về Tây Nguyên. Đó chính là lợi thế. Tuy nhiên, giáo dục Tây Nguyên đang phải thực thi nhiệm vụ nặng nề hơn so với các vùng khác. Bộ và các địa phương sẽ cùng cố gắng cho sự phát triển chung của giáo dục và giáo dục Tây Nguyên.

Hôm nay, sức sống mới đã và đang về trên vùng đất Tây Nguyên. Phía trước đang có nhiều niềm tin, khát vọng và không ít thử thách. Tin rằng, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước; cùng quyết tâm cao của hệ thống chính trị các địa phương; tinh thần đoàn kết, sự chung sức, đồng lòng của các dân tộc anh em, mạch nguồn phát triển sẽ được nối dài trên vùng đất giàu tiềm năng và thế mạnh phía Tây Tổ quốc.