Analytic
Thứ Sáu, ngày 23 tháng 08 năm 2019, 09:25:27
CHUYÊN TRANG
CÁC CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA
CHƯƠNG TRÌNH 1719 * NÔNG THÔN MỚI * GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG

Nhà máy gang thép Việt - Trung (Lào Cai): Nguy cơ dừng sản xuất do Covid-19

Trọng Bảo - 10:02, 15/09/2020

Thời gian gần đây, Nhà máy Gang thép Việt - Trung (Lào Cai) đang lâm vào tình trạng rất khó khăn, đối diện với nguy cơ dừng sản xuất. Nguyên nhân chính là do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, Nhà máy đang thiếu nguồn than cốc phục vụ luyện thép nhập khẩu từ Trung Quốc. Cùng với đó, Nhà máy đang thiếu trầm trọng nguồn vốn lưu động và phải trả lãi ngân hàng rất lớn do vay vốn hàng nghìn tỷ đồng.

Thị trường tiêu thụ phôi thép có nhiều biến động cũng như giá cả xuống thấp gây khó khăn cho Nhà máy.
Thị trường tiêu thụ phôi thép có nhiều biến động cũng như giá cả xuống thấp gây khó khăn cho Nhà máy.

Hoạt động cầm chừng

Nhà máy gang thép Việt - Trung (thuộc Công ty Khoáng sản và Luyện kim Việt - Trung) là công trình hợp tác giữa Tổng Công ty Thép Việt Nam (VNSteel) và Công ty Hữu hạn khống chế Cổ phần gang thép Côn Minh (Trung Quốc) nhằm khai thác và chế biến quặng sắt (li-mô-nít) tại mỏ sắt Quý Xa, xã Sơn Thủy, huyện Văn Bàn (Lào Cai).

Nhà máy được xây dựng và đi vào sản xuất từ tháng 12/2014, với công suất 500.000 tấn phôi thép/năm. Thực tế cho thấy, từ khi đi vào hoạt động đến nay, Nhà máy đã cung ứng ra thị trường trong nước và xuất khẩu hàng trăm nghìn tấn phôi thép và gang thỏi để sản xuất ra thép cán thương phẩm các loại, phục vụ nhu cầu xây dựng trên thị trường và xuất khẩu.

Theo báo cáo của Nhà máy, trong 7 tháng đầu 2020, Nhà máy đã sản xuất được 231.000 tấn phôi thép và đã bán được 243.000 tấn (12.000 tấn tồn của năm trước), doanh thu đạt 2.274 tỷ đồng, tuy nhiên lợi nhuận sau thuế lại âm 339%.

Ông Trần Trọng Mạnh, Phó Tổng Giám đốc Công ty Khoáng sản và Luyện kim Việt - Trung cho biết: Nguyên nhân khiến cho Nhà máy rơi vào khó khăn là do ảnh hưởng của dịch Covid-19, giá bán phôi thép giảm sâu, sản lượng tiêu thụ giảm. Cùng với đó, việc chưa tiêu thụ được quặng sắt khai thác từ mỏ Quý Xa, hiện đang tồn 506.000 tấn li-mô-nít và hơn 3 triệu tấn đe-lu-vi (quặng sắt nghèo) dẫn đến dòng tiền thu về rất thấp, khiến tình hình tài chính của Nhà máy gặp rất nhiều khó khăn.

“Hiện chúng tôi không có nguồn vốn lưu động. Trong khi đó, do phía Trung Quốc siết chặt cửa khẩu phòng, chống dịch Covid-19 nên việc nhập khẩu than cốc bị ngưng trệ. Hiện tại, lượng than cốc dự trữ trong kho thấp kỷ lục, luôn tiềm ẩn nguy cơ dừng sản xuất. Nhà máy hiện phải chạy cầm chừng để không bị tắt lò”, ông Mạnh cho hay.

Cần cơ chế đặc thù tháo gỡ khó khăn

Theo quy định, đến ngày 31/12/2020, giấy phép khai thác mỏ sắt Quý Xa sẽ hết hạn, muốn gia hạn thì Nhà máy phải hoàn thành nghĩa vụ tài chính liên quan đến hoạt động khai thác khoáng sản. Trong khi tình hình tài chính của Nhà máy hiện đang rất khó khăn, khó có khả năng thanh toán.

Được biết, Nhà máy hiện đang nợ ngân sách Nhà nước (NSNN) 957 tỷ đồng, nợ ngân hàng 3.667 tỷ đồng, nợ các nhà cung cấp 1.846 tỷ đồng. Vướng mắc cơ bản nhất hiện nay của Nhà máy là không có nguồn tài chính để thực hiện nghĩa vụ nộp NSNN. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến khả năng sẽ không được gia hạn Giấy phép khai thác mỏ sắt Quý Xa.

Được biết, Nhà máy là 1 trong 12 dự án thua lỗ trọng điểm của Bộ Công Thương. Bằng nhiều giải pháp và nỗ lực của VNSteel, từ năm 2018, Nhà máy đã có lãi và đang được đề xuất đưa ra khỏi diện yếu kém thì dịch Covid-19 ập đến.

Theo tính toán và kỳ vọng của VNSteel và tỉnh Lào Cai, Nhà máy sẽ là một trong những “mũi nhọn công nghiệp” ở vùng Tây Bắc nói chung, Lào Cai nói riêng để gia tăng giá trị quặng nguyên khai, giải quyết việc làm bền vững, thúc đẩy phát triển KT-XH, đóng góp cho NSNN.

Để tháo gỡ khó khăn trước mắt cũng như lâu dài, Nhà máy kiến nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét, ban hành chính sách hỗ trợ tín dụng cho đơn vị. Cụ thể, giãn và kéo dài thời gian các khoản nợ vay sắp đến hạn thanh toán; giảm lãi suất… Bên cạnh đó, cơ quan thuế địa phương giãn thời gian nộp thuế; các khoản thu ngân sách để giảm áp lực cho doanh nghiệp. Có như vậy mới bảo đảm hoạt động của Nhà máy, duy trì việc làm cho người lao động.