Analytic
Thứ Sáu, ngày 23 tháng 08 năm 2019, 09:25:27
CHUYÊN TRANG
CÁC CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA
CHƯƠNG TRÌNH 1719 * NÔNG THÔN MỚI * GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG

Mất cân bằng giới tính khi sinh: Hệ lụy khó lường

Minh Huệ - 10:35, 13/10/2020

Việt Nam chính thức mất cân bằng giới tính khi sinh từ năm 2006; tỷ số giới tính khi sinh tăng lên 109,8 và luôn ở ngưỡng trên 111 bé trai/100 bé gái. Các chuyên gia về dân số đều khẳng định, mất cân bằng giới tính khi sinh tăng cao sẽ dẫn đến những hệ lụy khó lường về mặt xã hội, kinh tế, thậm chí cả an ninh chính trị... Điều này đòi hỏi, cần có những can thiệp kịp thời để duy trì tỷ số giới tính khi sinh ở mức cân bằng tự nhiên.

Tỷ số mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam ở mức cao. Ảnh TL
Tỷ số mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam ở mức cao. Ảnh TL

Nhìn từ những con số

Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế) Phạm Vũ Hoàng cho biết, tỷ số giới tính khi sinh ở nước ta diễn biến khá phức tạp và có sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn; giữa các vùng miền trong cả nước. 

Ðặc biệt, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh diễn ra nghiêm trọng nhất ở nhóm kinh tế khá giả. Trong khi ở nhóm nghèo nhất (chiếm khoảng 20% dân số) tỷ suất giới tính khi sinh ở mức bình thường là 105,2 thì ở nhóm trung bình, nhóm giàu và nhóm giàu nhất tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh lại rất nặng nề.

Bà Hà Thị Quỳnh Anh, chuyên gia về giới và nhân quyền của Quỹ Dân số Liên hợp quốc cho rằng, nguyên nhân dẫn đến mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam là do việc lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới. Nhiều gia đình ở Việt Nam còn mang nặng tư tưởng phải sinh được con trai để nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên, tăng cường sức lao động và làm chỗ dựa cho cha mẹ khi về già... 

Bên cạnh đó, có thêm nhiều yếu tố tác động làm cho vấn đề này ngày càng trầm trọng hơn như: Lạm dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ để lựa chọn giới tính khi sinh; quy mô gia đình nhỏ buộc các gia đình phải lựa chọn có ít nhất một con trai; nhu cầu phát triển ở một số vùng đòi hỏi nhiều lao động nam...

Tất cả những nguyên nhân trên dẫn đến việc mỗi năm ở Việt Nam có khoảng 40.800 trẻ em gái không được sinh ra (theo Báo cáo Dân số thế giới năm 2020 do Quỹ Dân số Liên hợp quốc thực hiện). 

"Nhiều hệ lụy khó lường

Các nghiên cứu của quốc tế và Việt Nam đã chỉ ra, mất cân bằng giới tính khi sinh có thể dẫn đến những hệ lụy khó lường về mặt xã hội, kinh tế, thậm chí cả an ninh chính trị... Theo Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số-Kế hoạch hóa gia đình Phạm Vũ Hoàng, mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ dẫn đến tình trạng thừa nam, thiếu nữ trong độ tuổi kết hôn, từ đó, gây ra việc tan vỡ cấu trúc gia đình.

Các chuyên gia quốc tế đã dự báo, nếu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh không được kiểm soát, đến năm 2050, Việt Nam sẽ dư thừa khoảng 2,3 - 4,3 triệu nam giới. Điều đó dẫn đến việc, một bộ phận nam giới sẽ phải kết hôn muộn và nhiều người trong số họ không thể kết hôn. 

Việc gia tăng tỷ số giới tính khi sinh cũng làm gia tăng thêm sự bất bình đẳng như: Nhiều phụ nữ kết hôn sớm; tỷ lệ ly hôn và tái hôn của phụ nữ sẽ tăng cao; tình trạng bạo hành giới, mua dâm, buôn bán phụ nữ có nguy cơ tăng cao... Tình trạng nạo phá thai hoặc sinh con nhiều lần đến khi có được con trai gây ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất, tinh thần, sức khỏe sinh sản và tình dục của phụ nữ.

Theo bà Hà Thị Quỳnh Anh, Việt Nam hiện chưa phải đối mặt rõ ràng với hậu quả của việc lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới. Tuy nhiên, những bài học từ Trung Quốc và Ấn Độ - các quốc gia đã trải qua vấn đề này trước Việt Nam hơn 20 năm đã chỉ ra rằng, hậu quả này có thể xảy ra. Do đó, Việt Nam cần xây dựng chính sách ứng phó kịp thời.

Nguyên nhân dẫn đến mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam là do việc lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới. Nhiều gia đình ở Việt Nam còn mang nặng tư tưởng phải sinh được con trai để nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên, tăng cường sức lao động và làm chỗ dựa cho cha mẹ khi về già...”

Bà Hà Thị Quỳnh Anh, chuyên gia về giới và nhân quyền của Quỹ Dân số Liên hợp quốc