Analytic
Thứ Sáu, ngày 23 tháng 08 năm 2019, 09:25:27
CHUYÊN TRANG
CÁC CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA
CHƯƠNG TRÌNH 1719 * NÔNG THÔN MỚI * GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG

Không gì có thể phủ nhận tấm lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Tất Thành

PV - 10:12, 12/06/2021

Gần đây, có một số người chỉ dựa vào thư của Nguyễn Tất Thành viết ngày 15-9-1911 gửi Tổng thống Pháp xin vào học Trường Thuộc địa (École Coloniale) ở Paris và sự từ chối của giám đốc trường này để rồi quy chụp rằng “Nguyễn Tất Thành, bỏ nước ra đi chỉ với mục đích tìm đường làm quan, để giải quyết chuyện cơm ăn áo mặc của riêng mình, chứ không hề có ý định cứu nước giúp dân…”.

Bến Nhà Rồng trong một bưu thiếp thời thuộc địa. Ảnh tư liệu
Bến Nhà Rồng trong một bưu thiếp thời thuộc địa. Ảnh tư liệu

Đó là lập luận với ý đồ xấu nhằm hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh. Là một nhà nghiên cứu lịch sử, PGS, TS Vũ Quang Hiển (Đại học Quốc gia Hà Nội) đã có bài viết phản bác quan điểm sai trái trên. 

Do thiếu phương pháp luận khoa học, nhất là quan điểm lịch sử cụ thể và quan điểm toàn diện, họ đã lấy cái cá biệt thay cho cái toàn thể, lấy một hiện tượng thay cho bản chất. Đó là thuật ngụy biện, dẫn đến những kết luận sai lầm và mang nặng tính chủ quan. Nhưng điều tệ hại hơn, những kết luận đó được không ít những người khác lợi dụng để tuyên truyền xuyên tạc, gây hoài nghi về tấm lòng giúp dân, cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, nhằm “hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh”, làm lung lạc niềm tin của nhân dân Việt Nam đối với lãnh tụ của mình.

Đã có nhiều bài viết phản bác luận điểm trên, thiết nghĩ không cần phải bàn thêm. Nhưng khảo cứu lại điều kiện lịch sử lúc đó, tôi muốn làm sáng tỏ thêm một vấn đề căn cơ hơn: Vì sao Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước? Xin tóm tắt như sau:

Trước hết, xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Ảnh tư liệu.
Ảnh tư liệu.

Từ khi Pháp xâm lược Việt Nam, phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân Việt Nam đã diễn ra liên tục và anh dũng, với tinh thần “người trước ngã, người sau đứng dậy”. Nhiều phong trào yêu nước và con đường cứu nước theo các khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra liên tiếp cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, nhưng đều không thành công. Sự nghiệp cứu nước lâm vào một “tình hình đen tối tưởng như không có đường ra”, đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải tìm một con đường cứu nước mới.

Đất nước mất độc lập, nhân dân mất tự do. Độc lập tự do là khát vọng cháy bỏng của mọi người Việt Nam yêu nước, thôi thúc nhiều người ra đi tìm đường cứu nước, trong đó có Nguyễn Tất Thành.

Thứ hai, do sự hấp dẫn của văn minh nhân loại, nhất là khẩu hiệu “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” của cách mạng Pháp.

Sinh ra và lớn lên trong một nhà Nho giàu lòng yêu nước, Nguyễn Tất Thành sớm chịu ảnh hưởng của gia đình và truyền thống văn hoá của quê hương xứ Nghệ, có sự am hiểu về Nho giáo. Chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá phương Đông, nhưng ở Nguyễn Tất Thành không có sự chối bỏ, hay mâu thuẫn với văn hoá phương Tây. Với tư duy văn hoá mở, Nguyễn Tất Thành cảm nhận được sự phong phú của các nền văn hóa, hướng tới một thế giới năng động và sáng tạo, nhất là nơi có khoa học, kỹ thuật phát triển và những tư tưởng mới.

Tháng 9-1905, vào tuổi 13, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt được thân phụ Nguyễn Sinh Huy xin cho theo học lớp dự bị (préparatoire) Trường tiểu học Pháp - bản xứ ở Vinh. Tại đây, Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc với khẩu hiệu TỰ DO – BÌNH ĐẲNG – BÁC ÁI và “muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy”[1]. Trong thời gian làm thầy giáo ở Trường Dục Thanh, Phan Thiết (1910), Nguyễn Tất Thành được đọc Tân thư trong gia đình cụ Nguyễn Thông, tiếp cận với các thuyết nhân quyền, dân quyền, tự do, bình đẳng, bác ái do những triết gia và văn hào Pháp khởi xướng như J.J. Rousseau, Ch. De Montesquieu, Fr. Voltaire… Nguyễn Tất Thành được đọc một số tờ báo phát hành sang Việt Nam, nên “nảy ra ý muốn sang xem “mẫu quốc” ra sao”[2].

Ý tưởng đi sang phương Tây để tìm hiểu tình hình các nước và học hỏi thành tựu văn minh nhân loại từng bước lớn lên trong tâm trí Nguyễn Tất Thành, thể hiện sự mong muốn tiếp thu giá trị văn hoá nhân loại, là bước khởi động để đưa Việt Nam hội nhập vào các trào lưu tiến bộ của thời đại.

Thứ ba, nhờ trí tuệ và sự nhạy cảm về chính trị chính trị, Nguyễn Tất Thành nhận thấy sự cần thiết phải tìm một con đường mới.

Nguyễn Tất Thành nhận thấy hạn chế trong phong trào cứu nước của các vị tiền bối. Phong trào Đông Du tan rã, chứng tỏ không thể dựa vào Nhật để đánh Pháp, điều đó chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Thất bại của phong trào Duy tân cũng cho thấy việc trông chờ vào thiện chí cuả người Pháp để được trao trả nền độc lập cũng chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng thương”. Khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn, “nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong kiến". Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của các vị tiền bối, nhưng Nguyễn Tất Thành không theo con đường của họ.

Được theo phụ thân đi nhiều nơi gặp những người cùng chí hướng để bàn luận về thời cuộc, Nguyễn Tất Thành có điều kiện mở rộng tầm nhìn, tầm suy nghĩ, thấy rõ sự thống khổ của nhân dân, nên “sớm có chí đuổi thực dân Pháp giải phóng đồng bào” và không khỏi băn khoăn khi thấy nhiều cuộc nổi dậy của nhân dân không thành công. Làm thế nào để cứu nước là câu hỏi sớm được đặt ra trong tâm trí người thiếu niên yêu nước Nguyễn Tất Thành.

Năm học 1908-1909, Nguyễn Tất Thành vào học Trường Quốc học Huế, tận mắt chứng kiến cảnh thực dân Pháp khinh rẻ, bóc lột, hành hạ người Việt Nam, được nghe kể về những hành động của những ông vua yêu nước như Thành Thái, Duy Tân và những bàn luận của những sĩ phu yêu nước về con đường cứu nước.

Ngày 4-12-1908, Nguyễn Tất Thành tham gia cuộc biểu tình chống thuế của nông dân Thừa Thiên. Họ đi tay không, chỉ đòi giảm thuế. Để tỏ tình đoàn kết nhất trí, họ đều cắt tóc ngắn và gọi nhau là “đồng bào”. Vì những hoạt động yêu nước, Nguyễn Tất Thành bị người Pháp để ý theo dõi. Ông Nguyễn Sinh Sắc cũng bị chính quyền thuộc địa khiển trách vì để con trai có những hoạt động bài Pháp. Nguyễn Tất Thành được chứng kiến thực dân Pháp khinh rẻ, bóc lột, hành hạ người Việt Nam, nhà trường ca ngợi chế độ thực dân phong kiến; được nghe kể về hành động của những ông vua yêu nước như Thành Thái, Duy Tân và những bàn luận về con đường cứu nước trong các sĩ phu yêu nước…  

PGS, TS Vũ Quang Hiển.
PGS, TS Vũ Quang Hiển.

Một lần trả lời nhà văn Mỹ Anna Luyxơtơrông, Nguyễn Ái Quốc nói: “Nhân dân Việt Nam, trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”[3].

Thứ tư, một quyết định lịch sử của cá nhân Nguyễn Tất Thành

Được chứng kiến thất bại của các phong trào yêu nước chống Pháp, từ lòng yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc, năm 1911 Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước.

Trước khi đi, Nguyễn Tất Thành bàn với một người bạn thân: “Tôi muốn đi ra ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm… Anh muốn đi với tôi không?”. Khi người bạn hỏi “lấy đâu ra tiền mà đi?”, Nguyễn Tất Thành vừa nói, vừa giơ hai bàn tay một cách tự tin và kiên quyết: “Đây, tiền đây… chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi”[4].

Ngày 3-6-1911, Nguyễn Tất Thành với tên gọi Văn Ba được một thuỷ thủ dẫn lên tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin (Amiral Latouche Tréville), một con tàu lớn của hãng Sácgiơ Rêuyni (Charge Réuni), vừa chở khách, vừa chở hàng, gặp thuyền trưởng Maixen (Maisen) và được nhận làm phụ bếp trên tàu. Chuyến đi được xác định.

Ngày 5-6-1911, con tàu Amiral Latouche Tréville nhổ neo, rời bến cảng Sài Gòn đi Marseille. Với hành trang là chủ nghĩa yêu nước, cuộc hành trình đi tìm chân lý của Nguyễn Ái Quốc bắt đầu. Đó là chuyến đi một mình, không theo một tổ chức nào, cũng không có nguồn tài trợ của bất cứ ai. Từ đây, Nguyễn Ái Quốc vượt qua các đại dương đầy sóng gió, tự lao động để kiếm sống, đến với nhân loại cần lao đang tranh đấu ở nhiều châu lục và quốc gia trên thế giới, ở cả phương Đông và phương Tây, cả các nước tư bản và thuộc địa.

Một thời kỳ mới trong cuộc đời hoạt động của Nguyễn Ái Quốc - thời kỳ khảo nghiệm và tìm kiếm chân lý cứu nước bắt đầu.

Sự kiện Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước (5-6-1911) không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên, mà là một quyết định lịch sử, khởi đầu từ ý tưởng “làm quen với nền văn minh Pháp” xuất hiện từ thuở thiếu thời, khi được nghe các vị tiền bối luận bàn về phương thức cứu nước, cứu dân; được thôi thúc bởi thực tiễn phong trào yêu nước của nhân dân và sự đàn áp khốc liệt của thực dân Pháp. Sự kiện đó thể hiện thiên tài trí tuệ và nhãn quan chính trị sắc bén của Nguyễn Ái Quốc trước những thử thách khắc nghiệt của vận nước và sự biến chuyển của thời đại. Đó là quyết định mang tính nhân văn sâu sắc, nhằm vươn tới một chân trời mới, đưa đất nước hội nhập vào trào lưu tiến hoá của nhân loại, hướng tới giải phóng triệt để con người khỏi sự áp bức về mặt dân tộc, sự bóc lột về mặt giai cấp và sự nô dịch về mặt tinh thần.

Bản lĩnh Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, ngay từ quá trình tìm đường cứu nước, đã khởi đầu một hướng đi mới cho dân tộc Việt Nam, mà Ô. Manđenxtam cảm nhận “như nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới”[5].

PGS, TS VŨ QUANG HIỂN, Đại học Quốc gia Hà Nội


[1] Đây là lời kể với nhà văn Liên Xô Ôlíp Manđenxtam vào năm 1923 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 477).

[2] Đây là lời Nguyễn Ái Quốc trả lời phỏng vấn của phóng viên Giôvanni Giécmanéttô (báo L’UNITÀ của Đảng Cộng sản Italia (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sdd, t. 1, tr. 465).

[3] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr. 25-26.

[4] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb, Chính trị quốc gia và Nxb. Trẻ, Hà Nội, 2005, tr. 13-14.

Tin cùng chuyên mục
Tiếng nước mình...

Tiếng nước mình...

Buổi tối ở Lao Chải, gió bấc hun hút thổi. Trời đã chuyển lạnh tê tái. Sương đêm ập xuống, vây kín khắp các đỉnh núi, vạt nương. Bản làng cũng chìm trong biển sương mù. Sương trôi chầm chậm trên mặt đất, len lỏi những lối đi rồi tràn cả vào trong nhà làm ánh lửa bên các bếp thêm đượm...