Analytic
Thứ Sáu, ngày 23 tháng 08 năm 2019, 09:25:27
CHUYÊN TRANG
CÁC CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA
CHƯƠNG TRÌNH 1719 * NÔNG THÔN MỚI * GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG

30 năm đỏ lửa giữ nghề

L.Minh (t/h) - 17:09, 13/09/2021

Không muốn những tâm huyết cả đời của ông nội và người cha quá cố bị lãng quên và muốn làng nghề nổi tiếng hàng trăm năm luôn được gìn giữ, ông Nguyễn Trọng Hà (SN 1974), ở Tổ dân phố Tân Miếu, phường Trung Lương, thị xã Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh) đã gắn bó với nghề rèn suốt 30 năm qua.

Suốt hơn 30 năm qua, ông Hà đã nguyện gắn bó cả đời mình với nghề rèn
Suốt hơn 30 năm qua, ông Hà đã nguyện gắn bó cả đời mình với nghề rèn

Sinh ra và lớn lên ở làng rèn Trung Lương, từ bé ông Nguyễn Trọng Hà đã tiếp xúc với sắt, với dao, búa... Âm thanh quen thuộc hằng ngày mà ông được nghe là tiếng đe, tiếng búa. Ký ức về làng nghề hàng trăm tuổi trong ông hiển hiện qua từng câu chuyện kể sinh động của ông nội và cha.

"Cha tôi kể, ngày xưa ông nội phải mang rượu đến xin học nghề ở những người thợ giỏi trong làng. Tôi biết ông tôi, cha tôi và những lớp người đi trước đã luôn đau đáu với khát vọng gìn giữ làng nghề. Được cha “cầm tay chỉ việc”, truyền lại các bí quyết làm nghề, tôi đã nguyện gắn bó cả đời mình với nghề này", ông Hà chia sẻ.

Năm 1991, sau khi tốt nghiệp THPT, ông Hà quyết định lập nghiệp với nghề truyền thống mà gia đình đã dày công gây dựng. Sản phẩm của làng rèn Trung Lương chủ yếu phục vụ sinh hoạt, thoạt nhìn tưởng giản đơn, song để đạt đến độ tinh xảo không phải chuyện dễ. Người thợ có lành nghề hay không, được phản chiếu qua thước đo chất lượng của từng sản phẩm.

Ban đầu, ông vừa học vừa làm, được truyền kinh nghiệm từ các bậc tiền bối nên trình độ tay nghề khá lên từng ngày. Dần dần ông tự tin hơn với nghề, từng đường đe, đường búa cũng chính xác hơn. Rồi cũng đến lúc thoạt nhìn qua những tấm sắt vụn thô sơ ông có thể định hình ngay mình sẽ “vẽ” sản phẩm như thế nào cho phù hợp.

Từ khi sánh duyên, bà đã trở thành “cánh tay đắc lực”, cùng ông "xây dựng cơ đồ"
Từ khi sánh duyên, bà đã trở thành “cánh tay đắc lực”, cùng ông "xây dựng cơ đồ"

Rèn là công việc vất vả, đòi hỏi tính kiên nhẫn, sự bền bỉ. Công việc đặc thù trong khi thu nhập không cao, nên nhiều trai làng đã từ bỏ nghề truyền thống của cha ông. Còn ông, chính niềm đam mê và mong muốn làng nghề không bị mai một đã giúp bản thân trụ vững đến hôm nay.

Vợ ông, bà Đinh Thị Huyền Thanh cũng là người con của làng rèn. Tuy gia đình không làm rèn, nhưng tuổi thơ cũng đã quen với ánh lửa rèn của chú, của anh. Từ khi sánh duyên, bà đã trở thành “cánh tay đắc lực”, cùng ông xây dựng cơ đồ.

Sau khi ông định hình sản phẩm, vợ ông có thể mài rồi liếc lại cho cân thép, với các thao tác thành thục. Nhờ vậy, các công đoạn hoàn thiện sản phẩm sẽ nhanh chóng hơn. Ngoài hỗ trợ của ông trong sản xuất, vợ ông cũng là người “hiến kế” để tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ cho sản phẩm.

Cũng như bao hộ làm nghề trong làng, trước đây chủ yếu sản xuất thủ công, nhưng rồi ông nhận ra rằng nếu muốn phát triển theo hướng hàng hóa, thì buộc phải đầu tư. "Năm 2004, tôi vay mượn và chi trên 150 triệu đồng mua máy cắt sắt, máy đập, máy khoan, máy hàn, máy tiện... Tôi thuộc tốp người tiên phong ứng dụng máy móc vào sản xuất ở làng rèn Trung Lương lúc bấy giờ", ông Hà cho biết.

Ông Hà đưa cơ giới vào sản xuất, giải phóng được sức lao động
Ông Hà đưa cơ giới vào sản xuất, giải phóng được sức lao động

Đưa cơ giới vào sản xuất, ông đã giải phóng được sức lao động, trong khi năng suất công việc tăng gấp 2 - 3 lần. Cũng từ đó vợ chồng ông có sự tích góp để thực hiện những dự định đầu tư dài hơi hơn. Máy móc hoạt động 5 - 6 năm, ông lại thay dần thiết bị mới để tiệm cận với kỹ thuật sản xuất hiện đại.

Theo ông Hà, làm rèn khó mà dễ, dễ mà khó. Là trai Trung Lương, hầu như ai cũng biết rèn nhưng để trở thành người thợ lành nghề, có dấu ấn không phải ai cũng làm được. Thách thức đặt ra là phải đi qua lối mòn, phải linh hoạt, điều chỉnh về kỹ thuật sản xuất, mẫu mã và độ tinh xảo trong từng đường nét, chi tiết. Có như vậy, mới tạo ra sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng trong từng thời điểm.

Hiện, xưởng của ông sản xuất hàng chục sản phẩm, từ rựa, đăn, tông, mỏ cho đến cuốc, liềm, các loại dao... Tuy nhiên, ông dành phần lớn tâm huyết cho dao, với bộ sưu tập đủ loại từ dao chặt, dao thái, dao lột, dao 2 khâu, dao lợ… Làm dao đòi hỏi sự tỷ mẩn, chính xác trong từng công đoạn, thành phẩm ra đời phải sắc, có độ đằm khi sử dụng.

30 năm trải nghiệm với nghề, ông đã chắt lọc cho mình “cuốn sổ tay” sản xuất dao thái, dao chặt cao cấp. Để có cây dao tốt, người thợ phải trải qua 9 bước từ lựa chọn, phân loại nguyên liệu; rèn vỡ; chẻ sắt, bỏ thép vào và nung kết dính; rèn định hình sản phẩm; làm nguội, định dạng sản phẩm; tôi cứng sản phẩm; mài; làm cán, bôi dầu và đóng gói.

Bộ sản phẩm dao chặt và dao thái cao cấp Thanh Hà của cơ sở sản xuất của gia đình ông Hà đã được chứng nhận Sản phẩm OCOP 3 sao, năm 2020
Bộ sản phẩm dao chặt và dao thái cao cấp Thanh Hà của cơ sở sản xuất của gia đình ông Hà đã được chứng nhận Sản phẩm OCOP 3 sao, năm 2020

"Điều khiến bản thân tôi luôn trăn trở, là phải tạo ra dấu ấn trong nghề. Đó cũng là quyết tâm để tôi chinh phục mục tiêu sản phẩm OCOP cấp tỉnh. Tôi hiểu, chỉ khi xây dựng thành công thương hiệu, mới mong mở ra cơ hội để đưa sản phẩm làng nghề Trung Lương vượt qua “lũy tre làng”, ông Hà trăn trở.

Muốn có thương hiệu phải trải qua hành trình dài. Bên cạnh câu chuyện về tiêu chuẩn kỹ thuật, giá thành, công năng của sản phẩm thì việc bảo đảm môi trường trong quá trình sản xuất cũng cần phải bàn đến. Yếu tố môi trường là vấn đề được chúng tôi quan tâm. Cơ sở đã lắp đặt các tấm cách khí, bụi, âm và phần phế thải được thu gom riêng theo quy định.

Sau nhiều cố gắng, cuối cùng những nỗ lực của bản thân, sự hỗ trợ của chính quyền địa phương đã được đền đáp, khi bộ sản phẩm dao chặt và dao thái cao cấp Thanh Hà của cơ sở sản xuất của gia đình ông đã được chứng nhận Sản phẩm OCOP 3 sao vào năm 2020. Càng tự hào hơn, bởi đây là sản phẩm OCOP đầu tiên quy mô hộ cá thể ở làng nghề rèn Trung Lương./.